Bài viết "Hệ thống phương pháp tiếp cận hiện đại bảo vệ tài nguyên môi trường ở vùng biển Việt Nam" hệ thống hóa các phương pháp tiếp cận bảo vệ tài nguyên môi trường biển trong nước và quốc tế ở vùng biển Việt Nam hiện có. Bên cạnh đó, bài viết này cũng đề cập đến các pháp luật liên quan, những bất cập tồn tại trong công tác quản lý tài nguyên biển và những đề xuất về mở rộng các khu bảo tồn biển Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hệ thống phương pháp tiếp cận hiện đại bảo vệ tài nguyên môi trường ở vùng biển Việt Nam VỀ CÁC PHƢƠNG PHÁP TIẾP CẬN BẢO VỆ TÀI NGUYÊN MÔI TRƢỜNG Ở VÙNG BIỂN VIỆT NAM Dư Văn Toán Viện Nghiên cứu quản lý biển và hải đảo, 34A, ngõ 84, Phố Chùa Láng, Hà Nội. Email: duvantoan@gmail.com. Tóm tắt: Việc phát triển kinh tế biển mạnh đang làm suy giảm mạnh tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường biển Việt Nam nghiêm trọng. Bài báo hệ thống hóa các phương pháp tiếp cận bảo vệ tài nguyên môi trường biển trong nước và quốc tế ở vùng biển Việt Nam hiện có. Bài báo cũng giới thiệu các khu biển Việt Nam đã và sẽ được bảo vệ về tài nguyên và môi trường thiên nhiên. Các pháp luật liên quan và nhũng bất cập tồn tại trong công tác quản lý tài nguyên biển. Các đề xuất về mở rộng các khu bảo tồn biển Việt Nam và xây dựng các khu bảo tồn biển xuyên biên giới trong chiến lược bảo vệ tài nguyên và môi trường biển Việt Nam, phục vụ phát triển kinh tế bền vững. Abstract: The marine economic development are strength reduced natural resources and seriously pollutes to environment. The article systematically approach the protection of Vietnam marine environment and resources. The article also introduces Vietnam marine areas have been and will protect environment and natural resources. The relevant laws and inadequacies exist in the management of marine resources. The proposed extension of marine protected areas in Vietnam Sea and the construction of transboundary marine protected areas in the strategy to protect natural resources and environment of Vietnam, for sustainable economic development. I. Mở đầu Biển và đại dương là cái nôi của sự sống, đã và đang cung cấp cho nhân loại một khối lượng rất lớn thực phẩm, dược phẩm, nguyên nhiên vật liệu và năng lượng…. Biển Việt Nam có trên 20 kiểu hệ sinh thái, với năng suất sinh học cao, tài nguyên lớn, là nơi cư trú của khoảng 11.000 loài, trong đó trên 2.000 loài cá. Đặc biệt có mặt các hệ sinh thái rạn san hô, thảm cỏ biển và rừng ngập mặn. Người ta đã ước tính tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ của các hệ sinh thái biển trên toàn thế giới mỗi năm chừng 33 ngàn tỷ USD. Chỉ tính riêng giá trị của các hệ sinh thái rạn san hô vùng Đông Nam Á ước tính khoảng 112,5 tỷ USD. Tổng hợp các kết quả điều tra nghiên cứu trong nhiều năm cho thấy các nước Đông Nam Á trong vòng 20 năm qua đã mất tới 12% số rạn san hô, 48% số rạn khác đang trong tình trạng suy thoái nghiêm trọng; cỏ biển mất 30-60% và rừng ngập mặn (chiếm 1/3 thế giới) mất tới 70%. Theo dự báo của các nhà khoa học nếu không quản lý tốt thì rạn san hô ở Đông Nam Á sẽ bị xóa sổ vào năm 2020, còn rừng ngập mặn sẽ bị hủy diệt sau đó 10 năm vào năm 2030. Năm 2002, Viện tài nguyên quốc tế đã thống kê có tới 80% rạn san hô của Việt Nam đang trong tình trạng bị nguy hiểm, trong đó 50% nguy hiểm nặng. Tuy nhiên hiện nay tài nguyên sinh vật và các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo Việt Nam đã và đang trong tình trạng suy thoái nghiêm trọng do ô nhiễm môi trường, khai thác hải sản hủy diệt, đô thị hóa, khai hoang bãi triều, nuôi trồng hải sản, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, a xít hóa đại dương, giao thông hàng hải. Bởi vậy chúng ta cần có nhiều cách tiếp cận để bảo vệ tài nguyên và môi trường biển phục vụ phát triển kinh tế bền vững Trên thế giới, các quốc gia có biển hiện nay đang áp dụng nhiều phương pháp tiếp cận bảo vệ tài nguyên môi trường biển theo tiêu chuẩn của các tổ chức quốc tế UNESCO (công nhận di sản thiên nhiên va khu dự trữ sinh quyển) (từ năm 1972), Các khu đất ngập nước (RAMSAR, 1971), Các vịnh đẹp thế giới (WMBB, 1997), kỳ quan thế giới mới (NOWC, 2007), các khu biển đặc biệt nhậy cảm –PSSA (IMO, 1990) và các biện pháp cần thiết liên quan bảo vệ và sử dụng tài nguyên biển hợp lý phục vụ phát triển kinh tế biển, ven biển và hải đảo bền vững. Trên thế giới đã có 49 vùng Di sản thiên nhiên Biển (Việt Nam có 1 vịnh Hạ -1- Tiểu ban Khoa học và Công nghệ biển Long), rồi Việt Nam có 6 khu DTSQ, 1 khu RAMSAR, có 3 vịnh đẹp, 1 kỳ quan thiên nhiên mới đã được quốc tế công nhận [6]. Công tác quản lý và pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường biển của chúng ta còn nhiều bất cập và chưa đồng bộ. Tại Việt Nam về cơ sở pháp lý hiện có: Luật Tài nguyên môi trường biển (TCBHĐVN đang xây dựng, sẽ trình Quốc Hội năm 2010), Luật các khu bảo tồn biển (2011); nhưng đã có các luật, nghị định liên quan Luật Bảo vệ môi trường (2005), Luật Đa dạng Sinh học (2008), Nghị định Chính phủ số 25/2009/NĐ-CP về quản lý tổng hợp tài nguyên môi trường biển (2009), Quyết định số 742/2010/QĐ-TTg ngày 26/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về việc ...