Hiến chương ASEAN và nền pháp quyền Việt Nam
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 173.64 KB
Lượt xem: 17
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Một bản Hiến chương với 13 chương và 54 điều đã được 10 quốc gia ASEAN thông qua. Từ nay, thay vì các tuyên bố chính trị, các quốc gia thành viên sẽ từng bước thiết lập một khế ước chung sống với những nguyên tắc chung. Ở Việt Nam, nội dung của bản Hiến chương này dường như chưa phổ biến rộng rãi , càng chưa rõ tác động của Hiến chương ASEAN tới hệ thống pháp luật nước ta.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiến chương ASEAN và nền pháp quyền Việt Nam Hiến chương ASEAN và nền pháp quyền Việt Nam Một bản Hiến chương với 13 chương và 54 điều đã được 10 quốc gia ASEAN thông qua. Từ nay, thay vì các tuyên bố chính trị, các quốc gia thành viên sẽ từng bước thiết lập một khế ước chung sống với những nguyên tắc chung. Ở Việt Nam, nội dung của bản Hiến chương này dường như chưa phổ biến rộng rãi , càng chưa rõ tác động của Hiến chương ASEAN tới hệ thống pháp luật nước ta. Bài viết dưới đây lạm bàn về một số ảnh hưởng của bản Hiến chương này đối với nền pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Trọng tâm của bản Hiến chương là những cuộc dàn xếp về tổ chức để ASEAN có thể hoạt động như một thiết chế có các bộ máy thường trực và hiệu năng, từng bước xoá đi ký ức về ASEAN như những diễn đàn với những tuyên bố chính trị lỏng lẻo. Nếu Hiến chương có tác động đến Việt Nam, thường chỉ liên quan đến việc cụ thể hoá các nghĩa vụ của Việt Nam nh ư một thành viên phải tham gia đóng góp vào công việc chung của tổ chức này, từ đóng góp ngân sách, tham gia các diễn đàn, tổ chức, ban đại diện của ASEAN. Việt Nam, như các quốc gia thành viên khác, có nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các mục tiêu cũng như nguyên tắc của Hiến chương ASEAN. Trong nhiều nguyên tắc đó, Điều 1 và 2 của bản Hiến chương nhắc tới và lặp lại nguyên tắc tuân thủ pháp quyền, quản trị tốt, tôn trọng các quyền tự do, dân chủ, thúc đẩy v à bảo vệ nhân quyền, bảo vệ công bằng xã hội. Đây là những nghĩa vụ mà các quốc gia thành viên phải tuân thủ, song bản Hiến chương đã không quy định cụ thể các quốc gia phải tuân thủ nghĩa vụ đó như thế nào và nếu một quốc gia vi phạm nghĩa vụ đó thì người dân ASEAN có thể yêu cầu quyền lợi của mình bằng những phương cách gì. Vì thiếu các chế tài và chế ước quyền lực một cách cần thiết, bản Hiến chương vẫn mới chỉ là những tuyên bố, chưa hẳn đã có dáng dấp của những khế ước xã hội giữa chính quyền với người dân các nước ASEAN. Nói cách khác, bản Hiến chương chưa có hiệu lực như Hiến pháp hoặc pháp luật mà người ta có thể cảm nhận thấy ở các cộng đồng quốc tế khác, ví dụ trong khu vực Cộng đồn g Châu Âu. Trong bối cảnh ấy, dù đã phê chuẩn Hiến chương, song Việt Nam vẫn tiếp tục xây dựng nền pháp quyền, quản trị tốt, khuyến khích tự do, dân chủ, nhân quyền và công bằng xã hội theo cách hiểu và tiến độ của riêng mình. Bản Hiến chương ASEAN không hề cụ thể hoá bất kỳ nghĩa vụ n ào của Việt Nam phải sửa đổi hay ban hành những đạo luật cụ thể, kiểu như nước ta đã phải cam kết khi gia nhập WTO hay ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ. Nói cách khác, từ bản Hiến chương này, về nguyên tắc, Việt Nam không bắt buộc phải đưa ra một lộ trình xem xét hoặc cải cách pháp luật nào. Xét về ảnh hưởng gián tiếp, người ta thấy rằng ASEAN đã ghi nhận cuộc cạnh tranh giữa các dân tộc trong khu vực. Cách hiểu về pháp quyền, quản trị tốt, dân chủ, nhân quyền và công bằng xã hội của người Việt Nam, nếu không lấp lánh sáng hơn được các quốc gia khác, thì ít nhất cũng không nên quá khác biệt và cần phải đồng điệu với các quốc gia láng giềng trong khu vực ASEAN. Có thể đây sẽ là một ảnh hưởng đáng kể, nhất là khi Việt Nam phải cạnh tranh trước hết với các quốc gia trong khu cực. Theo thiển nghĩ của chúng tôi, pháp luật và nền tư pháp đã trở thành một thứ hạ tầng xã hội, nhìn vào đó các nhà đầu tư có thể tính toán được rủi ro và quyết định sẽ kinh doanh ở mức độ phù hợp nào. Nếu điện, nước phập phù, mỗi phân xưởng phải có máy phát điện riêng, thì người ta không thể đầu tư vào công nghệ cao, vi sinh hay những thứ tương tự, mà chỉ có thể nhắm vào dệt may hay gia công giày dép. Thì cũng thế, nền pháp luật thay đổi khó lường, nền tư pháp chưa bảo đảm công lý và mang lại sự thảnh thơi, tin cậy cho các bên tranh chấp mỗi khi ra toà, thì người ta chỉ kinh doanh trong không gian thuận tiện giành được từ sự vừa lòng của quan chức và sẽ rút lui nhanh chóng như có thể. Pháp luật chắp vá và nền tư pháp kém công minh cũng góp thêm nguyên nhân làm cho kinh tế Việt Nam manh mún, kém sức cạnh tranh. Thêm nữa, nếu thiếu pháp quyền và công lý, thứ pháp luật của chúng ta làm ra thường chỉ áp dụng cho dân nghèo và những người không có quyền thế, chứ ngày càng khó áp dụng cho thương nhân nước ngoài, cho những người có tiền và có thế lực. Trong các thương vụ với ngoại quốc, người ta có thể thoả thuận áp dụng luật và nền tài phán nước ngoài. Điều ấy có nghĩa là trên đất ta mà luật ta không được áp dụng, chúng ta có nguy cơ trở thành một thuộc địa về pháp luật đối với ngoại bang. Thiếu công lý thì toà án khó độc lập, không độc lập thì khó nghiêm minh, khả năng chịu đựng của các thẩm phán dù có dẻo dai đến mấy, song cũng khó lòng mà đứng vững mãi trước sức ép của quyền lực và tiền bạc. Vì lẽ ấy, xây dựng nền pháp quyền không có nghĩa là phải cố gắng làm thêm nhiều luật, mà ngược lại, phải làm cho luật nghiêm hơn. Phục vụ hướng này, Chính phủ Việt Nam đang hối thúc các cơ quan hành chính trong toàn q uốc rà soát lại gần ba vạn thủ tục h ành chính và buộc từng cơ quan nhà nước có kế hoạch giảm 30% thủ tục hành chính mà cơ quan mình phụ trách. Luật pháp, suy cho cùng cũng là một thứ chi phí. Càng nhiều chi phí đè lên đầu người dân một cách bất hợp lý thì người ta càng phải suy tính liệu có nên tuân thủ hay vi phạm pháp luật, thường thứ gì tiện lợi và hiệu quả thì người ta sẽ làm theo. Nếu điều ấy xảy ra thì luật pháp trở nên trống rỗng, bị khinh nhờn. Luật pháp suy cho cùng cũng chỉ là một trong vô số loại quy phạm điều chỉnh hành vi, những gì cần tới tiêu chuẩn mới cần ban hành luật, những gì người dân cần tự do thì chỉ nêu nguyên tắc, những gì đạo đức và niềm tin trong xã hội tự điều chỉnh tốt hơn thì không cần làm thêm luật. Tóm lại, để tăng tính cạnh tranh trong hạ tầng pháp luật và tư pháp với các quốc gia ASEAN khác, không chỉ xây dựng văn bản luật là quan trọng, mà quan trọng hơn phải xây dựng, tuân thủ nền pháp quyền, hướng tới một xã hội thượng tôn pháp luật. Nói một cách dễ hiểu, quyền lực phải đượ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiến chương ASEAN và nền pháp quyền Việt Nam Hiến chương ASEAN và nền pháp quyền Việt Nam Một bản Hiến chương với 13 chương và 54 điều đã được 10 quốc gia ASEAN thông qua. Từ nay, thay vì các tuyên bố chính trị, các quốc gia thành viên sẽ từng bước thiết lập một khế ước chung sống với những nguyên tắc chung. Ở Việt Nam, nội dung của bản Hiến chương này dường như chưa phổ biến rộng rãi , càng chưa rõ tác động của Hiến chương ASEAN tới hệ thống pháp luật nước ta. Bài viết dưới đây lạm bàn về một số ảnh hưởng của bản Hiến chương này đối với nền pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Trọng tâm của bản Hiến chương là những cuộc dàn xếp về tổ chức để ASEAN có thể hoạt động như một thiết chế có các bộ máy thường trực và hiệu năng, từng bước xoá đi ký ức về ASEAN như những diễn đàn với những tuyên bố chính trị lỏng lẻo. Nếu Hiến chương có tác động đến Việt Nam, thường chỉ liên quan đến việc cụ thể hoá các nghĩa vụ của Việt Nam nh ư một thành viên phải tham gia đóng góp vào công việc chung của tổ chức này, từ đóng góp ngân sách, tham gia các diễn đàn, tổ chức, ban đại diện của ASEAN. Việt Nam, như các quốc gia thành viên khác, có nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các mục tiêu cũng như nguyên tắc của Hiến chương ASEAN. Trong nhiều nguyên tắc đó, Điều 1 và 2 của bản Hiến chương nhắc tới và lặp lại nguyên tắc tuân thủ pháp quyền, quản trị tốt, tôn trọng các quyền tự do, dân chủ, thúc đẩy v à bảo vệ nhân quyền, bảo vệ công bằng xã hội. Đây là những nghĩa vụ mà các quốc gia thành viên phải tuân thủ, song bản Hiến chương đã không quy định cụ thể các quốc gia phải tuân thủ nghĩa vụ đó như thế nào và nếu một quốc gia vi phạm nghĩa vụ đó thì người dân ASEAN có thể yêu cầu quyền lợi của mình bằng những phương cách gì. Vì thiếu các chế tài và chế ước quyền lực một cách cần thiết, bản Hiến chương vẫn mới chỉ là những tuyên bố, chưa hẳn đã có dáng dấp của những khế ước xã hội giữa chính quyền với người dân các nước ASEAN. Nói cách khác, bản Hiến chương chưa có hiệu lực như Hiến pháp hoặc pháp luật mà người ta có thể cảm nhận thấy ở các cộng đồng quốc tế khác, ví dụ trong khu vực Cộng đồn g Châu Âu. Trong bối cảnh ấy, dù đã phê chuẩn Hiến chương, song Việt Nam vẫn tiếp tục xây dựng nền pháp quyền, quản trị tốt, khuyến khích tự do, dân chủ, nhân quyền và công bằng xã hội theo cách hiểu và tiến độ của riêng mình. Bản Hiến chương ASEAN không hề cụ thể hoá bất kỳ nghĩa vụ n ào của Việt Nam phải sửa đổi hay ban hành những đạo luật cụ thể, kiểu như nước ta đã phải cam kết khi gia nhập WTO hay ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ. Nói cách khác, từ bản Hiến chương này, về nguyên tắc, Việt Nam không bắt buộc phải đưa ra một lộ trình xem xét hoặc cải cách pháp luật nào. Xét về ảnh hưởng gián tiếp, người ta thấy rằng ASEAN đã ghi nhận cuộc cạnh tranh giữa các dân tộc trong khu vực. Cách hiểu về pháp quyền, quản trị tốt, dân chủ, nhân quyền và công bằng xã hội của người Việt Nam, nếu không lấp lánh sáng hơn được các quốc gia khác, thì ít nhất cũng không nên quá khác biệt và cần phải đồng điệu với các quốc gia láng giềng trong khu vực ASEAN. Có thể đây sẽ là một ảnh hưởng đáng kể, nhất là khi Việt Nam phải cạnh tranh trước hết với các quốc gia trong khu cực. Theo thiển nghĩ của chúng tôi, pháp luật và nền tư pháp đã trở thành một thứ hạ tầng xã hội, nhìn vào đó các nhà đầu tư có thể tính toán được rủi ro và quyết định sẽ kinh doanh ở mức độ phù hợp nào. Nếu điện, nước phập phù, mỗi phân xưởng phải có máy phát điện riêng, thì người ta không thể đầu tư vào công nghệ cao, vi sinh hay những thứ tương tự, mà chỉ có thể nhắm vào dệt may hay gia công giày dép. Thì cũng thế, nền pháp luật thay đổi khó lường, nền tư pháp chưa bảo đảm công lý và mang lại sự thảnh thơi, tin cậy cho các bên tranh chấp mỗi khi ra toà, thì người ta chỉ kinh doanh trong không gian thuận tiện giành được từ sự vừa lòng của quan chức và sẽ rút lui nhanh chóng như có thể. Pháp luật chắp vá và nền tư pháp kém công minh cũng góp thêm nguyên nhân làm cho kinh tế Việt Nam manh mún, kém sức cạnh tranh. Thêm nữa, nếu thiếu pháp quyền và công lý, thứ pháp luật của chúng ta làm ra thường chỉ áp dụng cho dân nghèo và những người không có quyền thế, chứ ngày càng khó áp dụng cho thương nhân nước ngoài, cho những người có tiền và có thế lực. Trong các thương vụ với ngoại quốc, người ta có thể thoả thuận áp dụng luật và nền tài phán nước ngoài. Điều ấy có nghĩa là trên đất ta mà luật ta không được áp dụng, chúng ta có nguy cơ trở thành một thuộc địa về pháp luật đối với ngoại bang. Thiếu công lý thì toà án khó độc lập, không độc lập thì khó nghiêm minh, khả năng chịu đựng của các thẩm phán dù có dẻo dai đến mấy, song cũng khó lòng mà đứng vững mãi trước sức ép của quyền lực và tiền bạc. Vì lẽ ấy, xây dựng nền pháp quyền không có nghĩa là phải cố gắng làm thêm nhiều luật, mà ngược lại, phải làm cho luật nghiêm hơn. Phục vụ hướng này, Chính phủ Việt Nam đang hối thúc các cơ quan hành chính trong toàn q uốc rà soát lại gần ba vạn thủ tục h ành chính và buộc từng cơ quan nhà nước có kế hoạch giảm 30% thủ tục hành chính mà cơ quan mình phụ trách. Luật pháp, suy cho cùng cũng là một thứ chi phí. Càng nhiều chi phí đè lên đầu người dân một cách bất hợp lý thì người ta càng phải suy tính liệu có nên tuân thủ hay vi phạm pháp luật, thường thứ gì tiện lợi và hiệu quả thì người ta sẽ làm theo. Nếu điều ấy xảy ra thì luật pháp trở nên trống rỗng, bị khinh nhờn. Luật pháp suy cho cùng cũng chỉ là một trong vô số loại quy phạm điều chỉnh hành vi, những gì cần tới tiêu chuẩn mới cần ban hành luật, những gì người dân cần tự do thì chỉ nêu nguyên tắc, những gì đạo đức và niềm tin trong xã hội tự điều chỉnh tốt hơn thì không cần làm thêm luật. Tóm lại, để tăng tính cạnh tranh trong hạ tầng pháp luật và tư pháp với các quốc gia ASEAN khác, không chỉ xây dựng văn bản luật là quan trọng, mà quan trọng hơn phải xây dựng, tuân thủ nền pháp quyền, hướng tới một xã hội thượng tôn pháp luật. Nói một cách dễ hiểu, quyền lực phải đượ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tư tưởng Chính trị Lý luận pháp luật nhà nước pháp quyền chủ nghĩa xã hội quyền lực nhà nướcGợi ý tài liệu liên quan:
-
112 trang 291 0 0
-
Bài thuyết trình: Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về Chủ nghĩa Xã hội
42 trang 220 0 0 -
Xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
10 trang 199 0 0 -
6 trang 178 0 0
-
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong tiến trình dân chủ hóa tại Việt Nam
14 trang 174 0 0 -
Đề tài: CÔNG BẰNG XÃ HỘI, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI VÀ ĐOÀN KẾT XÃ HỘI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
18 trang 147 0 0 -
57 trang 138 0 0
-
Tiểu luận: Lý luận về nhà nước và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
21 trang 137 0 0 -
214 trang 117 0 0
-
11 trang 113 0 0