Danh mục

Hiện trạng dịch vụ hậu cần nghề cá trên đảo Phú Quý, Bình Thuận

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 777.69 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài báo này phân tích hiện trạng cơ sở hạ tầng và hiệu quả kinh tế của dịch vụ hậu cần nghề cá trên huyện đảo Phú Quý - Bình Thuận, nhằm đề xuất mô hình khai thác - dịch vụ hậu cần nghề cá trên đảo có hiệu quả, bám biển dài ngày.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiện trạng dịch vụ hậu cần nghề cá trên đảo Phú Quý, Bình ThuậnTạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sảnSố 4/2016THOÂNG BAÙO KHOA HOÏCHIỆN TRẠNG DỊCH VỤ HẬU CẦN NGHỀ CÁ TRÊN ĐẢO PHÚ QUÝ,BÌNH THUẬNSTATUS OF LOGISTICAL FISHERY IN PHU QUY ISLAND, BINH THUANLại Huy Toản1, Nguyễn Đức Sĩ2Ngày nhận bài: 03/10/2014; Ngày phản biện thông qua: 29/12/2015; Ngày duyệt đăng: 15/12/2016TÓM TẮTBài báo này phân tích hiện trạng cơ sở hạ tầng và hiệu quả kinh tế của dịch vụ hậu cần nghề cá trênhuyện đảo Phú Quý - Bình Thuận, nhằm đề xuất mô hình khai thác - dịch vụ hậu cần nghề cá trên đảo có hiệuquả, bám biển dài ngày. Kết quả phân tích cho thấy hiện trạng đội tàu trên đảo trang bị công suất < 90 cvchiếm 80%, số lượng tàu khai thác ven bờ nhiều; Hệ thống dịch vụ hậu cần nghề cá có khả năng cung ứng trênđảo còn hạn chế; Ở Phú Quý có phương thức là: cung ứng trên biển bằng các tàu thu mua sản phẩm; phươngthức hoạt động mô hình dịch vụ hậu cần là dạng “tàu mẹ - tàu con”; Chất lượng bảo quản sản phẩm loại 1 củađội tàu mẹ (thu mua mực,cá) đạt cao; Lợi nhuận trung bình tàu mẹ (thu mua cá) đạt 781,22 (tr.đ/tàu/năm), tàumẹ (thu mua mực) đạt 639,68 (tr.đ/tàu/năm), tàu con lợi nhuận đạt 266,76 (tr.đ/tàu/năm), tàu con không thamgia mô hình đạt là 106,22 (tr.đ/tàu/năm). Vậy mô hình dịch vụ hậu cần dạng “tàu mẹ - tàu con” là phù hợpvới nghề cá trên huyện đảo Phú Quý hiện nay.Từ khóa: Dịch vụ hậu cần nghề cá, đảo Phú Quý, tàu mẹABSTRACTThis paper analyzed the social - economic status of logistical fishery in Phu Quy island - Binh Thuanprovince, in order to provide some solutions for fishing – logistical fisheries model on island to high efficiency,lasting duration in the sea. The analysis results showed that the engine boats at less than 90 cv were countingfor 80%, and many of them were inshore fishing vessels. The system of logistical fisheries was limited on theisland; Phu Quy island was applying the model of supplying services on the sea by product-purchase vesselsoperated as “mother boat – fishing boats”. Quality of products were achieved highly on mother boat, averageprofit of mother boat (fish purchase) was 781.22 (million/boat/year), mother boat (squid purchase) was 639.68(million/boat/year), fishing boat was 266.76 (million/boat/year) while the fishing boat of traditional model was106.22 (million/boat/year). Therefore, the model “mother boat – fishing boats” was considered as suitable infishery in Phu Quoc island.Keywords: Logistical fishery, Phu Quy island, mother fishing boat12Viện Nghiên cứu Hải sản Hải PhòngViện Khoa học và Công nghệ Khai thác thủy sản – Trường Đại học Nha Trang140 • NHA TRANG UNIVERSITYTạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sảnI. ĐẶT VẤN ĐỀHiện nay nghề cá của nước ta nói chungvà nghề cá ở huyện đảo Phú Quý nói riêngđang phải đối mặt với tình trạng nguồn lợisuy giảm, chi phí sản xuất ngày càng tăng,việc tổ chức khai thác chưa gắn kết với nhaudẫn đến hiệu quả kinh tế chuyến biển ngàycàng giảm.Đứng trước tình hình đó ngư dân ở mộtsố địa phương đã hợp tác với nhau để thànhlập các mô hình dich vụ hậu cần với mục đíchlà tăng hiệu quả khai thác, giảm thiểu rủi ro,hỗ trợ nhau trong tìm kiếm ngư trường, giảmchi phí sản xuất khi giá xăng dầu gia tăng. Tuynhiên, số lượng tàu trong mô hình bao nhiêuchiếc là phù hợp? Cơ cấu tổ chức như thế nàothì chặt chẽ và có tính khoa học? Phương thứchoạt động như thế nào là tốt?,... đang là vấn đềđược nhiều ngư dân, các bộ, ngành và Trungương quan tâm nghiên cứu nhằm đưa ra đượcmô hình tổ chức khai thác, dịch vụ hậu cần đạthiệu quả và bền vững.Bài báo này tập trung phân tích “Hiện trạngdịch vụ hậu cần nghề cá trên đảo Phú Quý –Bình Thuận” như phân tích hiện trạng cơ sở hạtầng trên bờ và hiện trạng các mô hình dịch vụhậu cần trên biển, nhằm đề xuất mô hình dịchvụ hậu cần để đạt hiệu quả cao cho đội tàukhai thác trên huyện đảo.II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU1. Phương pháp nghiên cứu- Sử dụng số liệu thứ cấp: đang lưu giữ tạicác cơ quan nghiên cứu và cơ quan quản lý.- Phương pháp điều tra số liệu sơ cấp:bằng cách phỏng vấn thuyền trưởng/chủ tàuvề hiện trạng trên các tàu theo mẫu in sẵn tạicác bến cá của huyện đảo Phú Quý. Số lượngmẫu ước tính theo phương pháp ước lượngmẫu của FAO (Constantine S, 2002) có độtin cậy 90 - 95 % như sau: tàu mẹ (thu muamực) là 21 mẫu; tàu mẹ (thu mua cá) là 5 mẫu;Số 4/2016tàu con (sản xuất) là 88 mẫu; tàu câu (khôngtham gia mô hình dịch vụ hậu cần trên biển) là54 mẫu.- Đối tượng nghiên cứu: tàu dịch vụ hậucần và tàu khai thác hải sản ở huyện đảoPhú Quý.- Đánh giá hiện trạng kinh tế - xã hội củadịch vụ hậu cần thông qua các tiêu chí như:mức độ tham gia của các thành phần kinh tế,mức thu nhập của thuyền viên và chủ tàu, chấtlượng sản phẩm loại I (%), mức độ an toàn, anninh trên biển của mô hình.2. Xử lý số liệuSố liệu thu thập được xử lý theo phươngpháp thống kê trên phần mềm Excel để tínhcác chỉ số kinh tế. Xử lý hiệu quả kinh tế đượcước tí ...

Tài liệu được xem nhiều: