Hiệp định TPP: Cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam
Số trang: 23
Loại file: pdf
Dung lượng: 394.54 KB
Lượt xem: 17
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết trình bày những tác động của Hiệp định TPP đến nền kinh tế Việt Nam; Một số giải pháp chủ yếu tận dụng tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực đối với kinh tế Việt Nam khi tham gia TPP.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiệp định TPP: Cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam HIỆP ĐỊNH TPP: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM PGS. TS. Phan Tố Uyên ThS. Lê Thùy Dương Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership Agreement - TPP) giữa 12 quốc gia bao gồm: Singapore, Chile, New Zealand, Brunei, Hoa Kỳ, Australia, Peru, Malaysia, Việt Nam, Canada, Mexico, Nhật Bản đã kết thúc đàm phán từ ngày 05/10/2015, dự kiến ký kết vào ngày 04/02/2016 tại New Zealand, và sẽ có hiệu lực 2 năm sau ngày ký kết. Được xem là một hiệp định mang tính bước ngoặt về thương mại và đầu tư của thế kỷ XXI, TPP được kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; hỗ trợ tạo ra và duy trì việc làm; thúc đẩy việc đổi mới, năng suất và tính cạnh tranh; nâng cao mức sống; giảm nghèo tại các nước; và nâng cao minh bạch hóa, quản trị tốt cũng như bảo hộ lao động và bảo vệ môi trường. Đối với Việt Nam, TPP được kỳ vọng sẽ thúc đẩy Việt Nam hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế. Tuy nhiên, đi kèm với những cơ hội đó, TPP cũng đem lại những thách thức không nhỏ cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam còn nhiều hạn chế, việc nghiên cứu, xem xét một cách đầy đủ, toàn diện về TPP và những tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam là vô cùng cần thiết để Việt Nam có thể lựa chọn những bước đi đúng đắn, tận dụng được những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế Việt Nam. 289 1. Những tác động của Hiệp định TPP đến nền kinh tế Việt Nam Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership Agreement - TPP) có nguồn gốc từ Hiệp định Hợp tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (còn gọi là Hiệp định P4 ký vào ngày 03/06/2005 và có hiệu lực từ ngày 28/5/2006 giữa 4 quốc gia: Singapore, Chile, New Zealand và Brunei). Sau thời điểm đó, đã có thêm nhiều quốc gia đàm phán để gia nhập Hiệp định, bao gồm: Hoa Kỳ, Australia, Peru, Malaysia, Việt Nam, Canada, Mexico, Nhật Bản, nâng tổng số đối tác tham gia đàm phán TPP lên 12 quốc gia. Việt Nam quyết định tham gia Hiệp định TPP với tư cách thành viên liên kết từ đầu năm 2009; và đến tháng 11/2010 đã chính thức tham gia đàm phán Hiệp định. Ngày 05/10/2015, tại Hội nghị Bộ trưởng thương mại 12 nước tham gia đàm phán Hiệp định TPP được tổ chức tại Atlanta, Hoa Kỳ, các quốc gia đã đạt được thống nhất về các vấn đề đàm phán và tuyên bố kết thúc đàm phán Hiệp định TPP. Bên lề hội nghị cấp cao APEC lần thứ XXIII diễn ra tại Manila, Philippines khai mạc vào ngày 18/11/2015, nguyên thủ của 12 nước thành viên TPP đã nhóm họp và nhất trí sẽ tổ chức lễ ký kết chính thức Hiệp định TPP vào ngày 04/02/2016 tại New Zealand, đồng thời đưa ra lộ trình để Hiệp định đi vào hiệu lực là 2 năm sau ngày ký kết. Ngoài ra, nguyên thủ các quốc gia cũng cam kết sẽ tập trung mọi nỗ lực cần thiết để quốc hội các nước thành viên sớm phê chuẩn Hiệp định. Như vậy, trải qua quãng thời gian 5 năm, với 19 vòng đàm phán chính thức, 6 Phiên họp cấp Bộ trưởng thương mại và hàng chục vòng đàm phán không chính thức cấp kỹ thuật hoặc cấp Trưởng Đoàn đàm phán; thêm vào đó là một số lượng rất lớn cuộc gặp, đàm phán song phương giữa các cặp đối tác trong TPP (như giữa Hoa Kỳ với Nhật Bản về vấn đề nông nghiệp, ô tô; giữa Hoa Kỳ với Việt Nam về vấn đề mở cửa thị trường, dệt may, giầy dép, lao động…), tiến trình đàm phán Hiệp định TPP đã hoàn tất, mở đường cho sự phát triển của khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới. TPP là một hiệp định có phạm vi điều chỉnh rất rộng lớn, bao gồm cả về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ; và cả vấn đề phi thương mại như mua sắm Chính phủ, môi trường, lao động, công đoàn... Bên cạnh việc nâng cấp cách tiếp cận truyền thống đối với những vấn đề đã được điều chỉnh bởi các hiệp định thương mại tự do trước đó (FTAs), Hiệp định 290 TPP còn đưa vào những vấn đề thương mại mới và đang nổi lên như những nội dung liên quan đến Internet và nền kinh tế số, sự tham gia ngày càng tăng của các doanh nghiệp nhà nước vào thương mại và đầu tư quốc tế, vấn đề hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và nhiều nội dung khác. Điều này đã góp phần làm nên một Hiệp định mang tính bước ngoặc của thế kỷ XXI, tạo ra một tiêu chuẩn mới cho thương mại toàn cầu. Việc tham gia Hiệp định TPP được coi là một bước đi quan trọng của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; và được xem như cơ hội lớn để Việt Nam đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, cải cách thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cũng như của cộng đồng doanh nghiệp. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận, đó là so với các đối tác trong TPP là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada, Mexico, Peru, Chile, Singapore, Brunei, Malaysia, Australia và New Zealand, thì Việt Nam hiện là thành viên kém phát triển nhất. Thêm vào đó, Việt Nam cũng đang phải thực hiện các bước đi để các thành viên trong TPP thừa nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, khi hiện nay, mới chỉ có 8 nước công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, còn ba quốc gia còn lại là Hoa Kỳ, Canada và Mexico thì chưa. Ký kết một FTA đồng nghĩa với việc chấp thuận mở rộng thị trường của mình cho hàng hóa dịch vụ nước ngoài, cũng như xác lập quyền tiếp cận ưu tiên của hàng hóa dịch vụ nước mình tại thị trường đối tác. Với cách hiểu thông thường này, lợi ích trong TPP của Việt Nam chủ yếu nằm ở khả năng hàng hóa dịch vụ của chúng ta sẽ thuận lợi hơn khi tiếp cận thị tr ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiệp định TPP: Cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam HIỆP ĐỊNH TPP: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM PGS. TS. Phan Tố Uyên ThS. Lê Thùy Dương Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership Agreement - TPP) giữa 12 quốc gia bao gồm: Singapore, Chile, New Zealand, Brunei, Hoa Kỳ, Australia, Peru, Malaysia, Việt Nam, Canada, Mexico, Nhật Bản đã kết thúc đàm phán từ ngày 05/10/2015, dự kiến ký kết vào ngày 04/02/2016 tại New Zealand, và sẽ có hiệu lực 2 năm sau ngày ký kết. Được xem là một hiệp định mang tính bước ngoặt về thương mại và đầu tư của thế kỷ XXI, TPP được kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; hỗ trợ tạo ra và duy trì việc làm; thúc đẩy việc đổi mới, năng suất và tính cạnh tranh; nâng cao mức sống; giảm nghèo tại các nước; và nâng cao minh bạch hóa, quản trị tốt cũng như bảo hộ lao động và bảo vệ môi trường. Đối với Việt Nam, TPP được kỳ vọng sẽ thúc đẩy Việt Nam hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế. Tuy nhiên, đi kèm với những cơ hội đó, TPP cũng đem lại những thách thức không nhỏ cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam còn nhiều hạn chế, việc nghiên cứu, xem xét một cách đầy đủ, toàn diện về TPP và những tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam là vô cùng cần thiết để Việt Nam có thể lựa chọn những bước đi đúng đắn, tận dụng được những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế Việt Nam. 289 1. Những tác động của Hiệp định TPP đến nền kinh tế Việt Nam Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership Agreement - TPP) có nguồn gốc từ Hiệp định Hợp tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (còn gọi là Hiệp định P4 ký vào ngày 03/06/2005 và có hiệu lực từ ngày 28/5/2006 giữa 4 quốc gia: Singapore, Chile, New Zealand và Brunei). Sau thời điểm đó, đã có thêm nhiều quốc gia đàm phán để gia nhập Hiệp định, bao gồm: Hoa Kỳ, Australia, Peru, Malaysia, Việt Nam, Canada, Mexico, Nhật Bản, nâng tổng số đối tác tham gia đàm phán TPP lên 12 quốc gia. Việt Nam quyết định tham gia Hiệp định TPP với tư cách thành viên liên kết từ đầu năm 2009; và đến tháng 11/2010 đã chính thức tham gia đàm phán Hiệp định. Ngày 05/10/2015, tại Hội nghị Bộ trưởng thương mại 12 nước tham gia đàm phán Hiệp định TPP được tổ chức tại Atlanta, Hoa Kỳ, các quốc gia đã đạt được thống nhất về các vấn đề đàm phán và tuyên bố kết thúc đàm phán Hiệp định TPP. Bên lề hội nghị cấp cao APEC lần thứ XXIII diễn ra tại Manila, Philippines khai mạc vào ngày 18/11/2015, nguyên thủ của 12 nước thành viên TPP đã nhóm họp và nhất trí sẽ tổ chức lễ ký kết chính thức Hiệp định TPP vào ngày 04/02/2016 tại New Zealand, đồng thời đưa ra lộ trình để Hiệp định đi vào hiệu lực là 2 năm sau ngày ký kết. Ngoài ra, nguyên thủ các quốc gia cũng cam kết sẽ tập trung mọi nỗ lực cần thiết để quốc hội các nước thành viên sớm phê chuẩn Hiệp định. Như vậy, trải qua quãng thời gian 5 năm, với 19 vòng đàm phán chính thức, 6 Phiên họp cấp Bộ trưởng thương mại và hàng chục vòng đàm phán không chính thức cấp kỹ thuật hoặc cấp Trưởng Đoàn đàm phán; thêm vào đó là một số lượng rất lớn cuộc gặp, đàm phán song phương giữa các cặp đối tác trong TPP (như giữa Hoa Kỳ với Nhật Bản về vấn đề nông nghiệp, ô tô; giữa Hoa Kỳ với Việt Nam về vấn đề mở cửa thị trường, dệt may, giầy dép, lao động…), tiến trình đàm phán Hiệp định TPP đã hoàn tất, mở đường cho sự phát triển của khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới. TPP là một hiệp định có phạm vi điều chỉnh rất rộng lớn, bao gồm cả về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ; và cả vấn đề phi thương mại như mua sắm Chính phủ, môi trường, lao động, công đoàn... Bên cạnh việc nâng cấp cách tiếp cận truyền thống đối với những vấn đề đã được điều chỉnh bởi các hiệp định thương mại tự do trước đó (FTAs), Hiệp định 290 TPP còn đưa vào những vấn đề thương mại mới và đang nổi lên như những nội dung liên quan đến Internet và nền kinh tế số, sự tham gia ngày càng tăng của các doanh nghiệp nhà nước vào thương mại và đầu tư quốc tế, vấn đề hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và nhiều nội dung khác. Điều này đã góp phần làm nên một Hiệp định mang tính bước ngoặc của thế kỷ XXI, tạo ra một tiêu chuẩn mới cho thương mại toàn cầu. Việc tham gia Hiệp định TPP được coi là một bước đi quan trọng của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; và được xem như cơ hội lớn để Việt Nam đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, cải cách thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cũng như của cộng đồng doanh nghiệp. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận, đó là so với các đối tác trong TPP là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada, Mexico, Peru, Chile, Singapore, Brunei, Malaysia, Australia và New Zealand, thì Việt Nam hiện là thành viên kém phát triển nhất. Thêm vào đó, Việt Nam cũng đang phải thực hiện các bước đi để các thành viên trong TPP thừa nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, khi hiện nay, mới chỉ có 8 nước công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, còn ba quốc gia còn lại là Hoa Kỳ, Canada và Mexico thì chưa. Ký kết một FTA đồng nghĩa với việc chấp thuận mở rộng thị trường của mình cho hàng hóa dịch vụ nước ngoài, cũng như xác lập quyền tiếp cận ưu tiên của hàng hóa dịch vụ nước mình tại thị trường đối tác. Với cách hiểu thông thường này, lợi ích trong TPP của Việt Nam chủ yếu nằm ở khả năng hàng hóa dịch vụ của chúng ta sẽ thuận lợi hơn khi tiếp cận thị tr ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Hiệp định TPP Tăng trưởng kinh tế Tái cơ cấu nền kinh tế Cải cách hành chính Môi trường đầu tư kinh doanhGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô: Phần 1 - N. Gregory Mankiw, Vũ Đình Bách
117 trang 715 3 0 -
Nguồn lực tài chính phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở Việt Nam
3 trang 246 0 0 -
13 trang 191 0 0
-
Bài giảng Kinh tế phát triển: Chương 3 - PGS .TS Đinh Phi Hổ
35 trang 163 0 0 -
Tác động của lao động và nguồn vốn đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
5 trang 155 0 0 -
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ngân sách giáo dục tại Việt Nam giai đoạn 2000-2012
4 trang 150 0 0 -
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến giá bán căn hộ chung cư trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
12 trang 142 0 0 -
Những thách thức đối với sự phát triển bền vững của doanh nghiệp Việt Nam và giải pháp khắc phục
13 trang 122 0 0 -
44 trang 120 0 0
-
Đánh giá tác động giữa vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
20 trang 113 0 0