Hiệu quả các dịch chiết khổ sâm (Croton tonkinensis ) và đơn châu chấu (Aralia armata ) trong phòng trị bệnh hoại tử gan tụy cấp trên tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) ở điều kiện phòng thí nghiệm
Số trang: 19
Loại file: pdf
Dung lượng: 673.86 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mục tiêu của nghiên cứu này là thử nghiệm tính hiệu quả của hai dịch chiết Khổ sâm (Croton tonkinensis) và Đơn châu chấu (Aralia armata) về khả năng phòng AHPND được gây ra bởi Vibrio parahaemolyticus ở tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) bằng gây cảm nhiễm thực nghiệm.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiệu quả các dịch chiết khổ sâm (Croton tonkinensis ) và đơn châu chấu (Aralia armata ) trong phòng trị bệnh hoại tử gan tụy cấp trên tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) ở điều kiện phòng thí nghiệm VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II HIỆU QUẢ CÁC DỊCH CHIẾT KHỔ SÂM (Croton tonkinensis ) VÀ ĐƠN CHÂU CHẤU (Aralia armata ) TRONG PHÒNG TRỊ BỆNH HOẠI TỬ GAN TỤY CẤP TRÊN TÔM THẺ CHÂN TRẮNG (Penaeus vannamei) Ở ĐIỀU KIỆN PHÒNG THÍ NGHIỆM Trương Hồng Việt1*, Đỗ Thị Cẩm Hồng1, Vũ Thiên Ân1, Trần Bảo Ngọc2, Nguyễn Trần Gia Bảo2, Trần Minh Trung1 TÓM TẮT Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc năm 2009, sau đó phát tán đến Việt Nam năm 2010. Nó gây ảnh hưởng tiêu cực cho ngành công nghiệp tôm ở Việt Nam với thiệt hại kinh tế khoảng 7,2 triệu Đô la Mỹ trong năm 2012. Mục tiêu của nghiên cứu này là thử nghiệm tính hiệu quả của hai dịch chiết Khổ sâm (Croton tonkinensis) và Đơn châu chấu (Aralia armata) về khả năng phòng AHPND được gây ra bởi Vibrio parahaemolyticus ở tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) bằng gây cảm nhiễm thực nghiệm. Có hai thí nghiệm được thực hiện: (1) Phòng bệnh bằng hai loại dịch chiết Khổ sâm hoặc Đơn châu chấu được trộn vào thức ăn với hai nồng độ gồm 2% (20 g dịch chiết/kg thức ăn) và 4% (40 g dịch chiết/kg thức ăn), tôm được cho ăn liên tục suốt 7 ngày trước và sau khi gây nhiễm bệnh bằng phương pháp ngâm trực tiếp dịch nuôi cấy vi khuẩn vào bể tôm. (2) Phòng bệnh bằng hai loại dịch chiết Khổ sâm hoặc Đơn châu chấu được cho trực tiếp vào nước nuôi tôm với hai nồng độ gồm 15 ppm (0,45 g dịch chiết/bể/30 lít nước) và 20 ppm (0,6 g dịch chiết/bể/30 lít nước). Tôm được ngâm dịch chiết 1 giờ trước khi gây nhiễm bệnh bằng phương pháp ngâm trực tiếp dịch nuôi cấy vi khuẩn vào bể tôm, và thêm 1 lần cùng nồng độ dịch chiết đó ở 24 giờ sau gây nhiễm bệnh. Kết quả thí nghiệm 1 cho thấy tỷ lệ sống trung bình khi kết thúc thí nghiệm phòng bệnh (7 ngày) với hai dịch chiết trên ở các nồng độ 2% và 4% đều lớn hơn 60%, và tỷ lệ này có sự khác biệt ý nghĩa thống kê (p VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN IIPhilippines (2014) (De la Pena & ctv., 2015). Ở thiệt hại 52% diện tích nuôi tôm sú và 34,7%Việt Nam, ban đầu chỉ xảy ra tại một số vùng, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng. Đa phần tômsau đó lan ra các tỉnh vùng Tây Nam Bộ gồm ở giai đoạn 15-45 ngày tuổi, chủ yếu bị bệnhSóc Trăng, Bạc Liêu, Bến Tre, Tiền Giang, Cà đốm trắng và hoại tử gan tụy (Tổng cục ThuỷMau, tính từ đầu năm 2010 đến tháng 6 năm sản, 28/2/2017). Theo kết quả điều tra 5 tháng2011, tổng thiệt hại ước tính với tổng diện tích đầu năm 2017 cho thấy, diện tích bị bệnh hoạiao nuôi tôm là 98.000 ha. Theo báo cáo ở các trại tử gan tụy ở Đồng bằng sông Cửu Long là 1.557tôm: ở Bạc Liêu có tổng diện tích ao tôm bị chết ha, chiếm khoảng 13,6%, trong đó tỉnh Bạc Liêulà 11.000 ha, ở Trà Vinh là 6.200 ha với tổng có diện tích bị bệnh lớn nhất (chiếm hơn 25,7%số 330 triệu tôm đã chết làm thiệt hại hơn 12 tỷ tổng diện tích tôm bị bệnh), tiếp đó là các tỉnhđồng và ở Sóc Trăng là 20.000 ha làm thiệt hại Sóc Trăng, Kiên Giang, Trà Vinh (Tổng cục1,5 tỷ đồng (Mooney, 2012). Trong năm 2014, Thuỷ sản, 11/7/2017).bệnh hoại tử gan tụy cấp xảy ra tại 237 xã, 62 Nguyên nhân chính của AHPND đã đượchuyện thuộc 22 tỉnh, thành phố. Tổng diện tích xác định là do vi khuẩn Vibrio parahaemolyticusnuôi tôm bị bệnh là 5.509 ha (chiếm 0,81% tổng (Tran và ctv., 2013). Bộ gen của các chủng gâydiện tích thả nuôi của cả nước), trong đó tổng bệnh AHPND có chứa 2 gen tương đồng với cácdiện tích nuôi tôm theo hình thức thâm canh và gen gây độc của côn trùng Photorhabdus (Pir)bán thâm canh bị thiệt hại 5.067 ha; hình thức với tên gọi là PirA và PirB (Yang và ctv., 2014).nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến và tôm lúa Các gen này nằm trong đoạn ADN có kích thước441 ha. Bệnh xảy ra trên cả tôm chân trắng và 3,5 kb (kilobase) bên trong một plasmid lớntôm sú có độ tuổi từ 10 - 103 ngày sau thả; diện (được xem như là nhiễm sắc thể phụ) có kíchtích thiệt hại chủ yếu trên tôm chân trắng (3,421 thước 69 kb được bao gồm trong bộ gen của V.ha, chiếm 62% tổng diện tích bị bệnh hoại tử parahaemolyticus, mã hoá cho hai độc tố gâygan tụy cấp) (Tổng cục Thuỷ sản, 22/1/2015). bệnh hoại tử gan tuỵ cấp (Yang & ctv., 2014;Trong năm 2016, bệnh xảy ra tại 299 xã của 82 Han & ctv., 2015). AHPND có thể gây chết đốihuyện, thị xã thuộc 25 tỉnh của cả nước, g ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiệu quả các dịch chiết khổ sâm (Croton tonkinensis ) và đơn châu chấu (Aralia armata ) trong phòng trị bệnh hoại tử gan tụy cấp trên tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) ở điều kiện phòng thí nghiệm VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II HIỆU QUẢ CÁC DỊCH CHIẾT KHỔ SÂM (Croton tonkinensis ) VÀ ĐƠN CHÂU CHẤU (Aralia armata ) TRONG PHÒNG TRỊ BỆNH HOẠI TỬ GAN TỤY CẤP TRÊN TÔM THẺ CHÂN TRẮNG (Penaeus vannamei) Ở ĐIỀU KIỆN PHÒNG THÍ NGHIỆM Trương Hồng Việt1*, Đỗ Thị Cẩm Hồng1, Vũ Thiên Ân1, Trần Bảo Ngọc2, Nguyễn Trần Gia Bảo2, Trần Minh Trung1 TÓM TẮT Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc năm 2009, sau đó phát tán đến Việt Nam năm 2010. Nó gây ảnh hưởng tiêu cực cho ngành công nghiệp tôm ở Việt Nam với thiệt hại kinh tế khoảng 7,2 triệu Đô la Mỹ trong năm 2012. Mục tiêu của nghiên cứu này là thử nghiệm tính hiệu quả của hai dịch chiết Khổ sâm (Croton tonkinensis) và Đơn châu chấu (Aralia armata) về khả năng phòng AHPND được gây ra bởi Vibrio parahaemolyticus ở tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) bằng gây cảm nhiễm thực nghiệm. Có hai thí nghiệm được thực hiện: (1) Phòng bệnh bằng hai loại dịch chiết Khổ sâm hoặc Đơn châu chấu được trộn vào thức ăn với hai nồng độ gồm 2% (20 g dịch chiết/kg thức ăn) và 4% (40 g dịch chiết/kg thức ăn), tôm được cho ăn liên tục suốt 7 ngày trước và sau khi gây nhiễm bệnh bằng phương pháp ngâm trực tiếp dịch nuôi cấy vi khuẩn vào bể tôm. (2) Phòng bệnh bằng hai loại dịch chiết Khổ sâm hoặc Đơn châu chấu được cho trực tiếp vào nước nuôi tôm với hai nồng độ gồm 15 ppm (0,45 g dịch chiết/bể/30 lít nước) và 20 ppm (0,6 g dịch chiết/bể/30 lít nước). Tôm được ngâm dịch chiết 1 giờ trước khi gây nhiễm bệnh bằng phương pháp ngâm trực tiếp dịch nuôi cấy vi khuẩn vào bể tôm, và thêm 1 lần cùng nồng độ dịch chiết đó ở 24 giờ sau gây nhiễm bệnh. Kết quả thí nghiệm 1 cho thấy tỷ lệ sống trung bình khi kết thúc thí nghiệm phòng bệnh (7 ngày) với hai dịch chiết trên ở các nồng độ 2% và 4% đều lớn hơn 60%, và tỷ lệ này có sự khác biệt ý nghĩa thống kê (p VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN IIPhilippines (2014) (De la Pena & ctv., 2015). Ở thiệt hại 52% diện tích nuôi tôm sú và 34,7%Việt Nam, ban đầu chỉ xảy ra tại một số vùng, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng. Đa phần tômsau đó lan ra các tỉnh vùng Tây Nam Bộ gồm ở giai đoạn 15-45 ngày tuổi, chủ yếu bị bệnhSóc Trăng, Bạc Liêu, Bến Tre, Tiền Giang, Cà đốm trắng và hoại tử gan tụy (Tổng cục ThuỷMau, tính từ đầu năm 2010 đến tháng 6 năm sản, 28/2/2017). Theo kết quả điều tra 5 tháng2011, tổng thiệt hại ước tính với tổng diện tích đầu năm 2017 cho thấy, diện tích bị bệnh hoạiao nuôi tôm là 98.000 ha. Theo báo cáo ở các trại tử gan tụy ở Đồng bằng sông Cửu Long là 1.557tôm: ở Bạc Liêu có tổng diện tích ao tôm bị chết ha, chiếm khoảng 13,6%, trong đó tỉnh Bạc Liêulà 11.000 ha, ở Trà Vinh là 6.200 ha với tổng có diện tích bị bệnh lớn nhất (chiếm hơn 25,7%số 330 triệu tôm đã chết làm thiệt hại hơn 12 tỷ tổng diện tích tôm bị bệnh), tiếp đó là các tỉnhđồng và ở Sóc Trăng là 20.000 ha làm thiệt hại Sóc Trăng, Kiên Giang, Trà Vinh (Tổng cục1,5 tỷ đồng (Mooney, 2012). Trong năm 2014, Thuỷ sản, 11/7/2017).bệnh hoại tử gan tụy cấp xảy ra tại 237 xã, 62 Nguyên nhân chính của AHPND đã đượchuyện thuộc 22 tỉnh, thành phố. Tổng diện tích xác định là do vi khuẩn Vibrio parahaemolyticusnuôi tôm bị bệnh là 5.509 ha (chiếm 0,81% tổng (Tran và ctv., 2013). Bộ gen của các chủng gâydiện tích thả nuôi của cả nước), trong đó tổng bệnh AHPND có chứa 2 gen tương đồng với cácdiện tích nuôi tôm theo hình thức thâm canh và gen gây độc của côn trùng Photorhabdus (Pir)bán thâm canh bị thiệt hại 5.067 ha; hình thức với tên gọi là PirA và PirB (Yang và ctv., 2014).nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến và tôm lúa Các gen này nằm trong đoạn ADN có kích thước441 ha. Bệnh xảy ra trên cả tôm chân trắng và 3,5 kb (kilobase) bên trong một plasmid lớntôm sú có độ tuổi từ 10 - 103 ngày sau thả; diện (được xem như là nhiễm sắc thể phụ) có kíchtích thiệt hại chủ yếu trên tôm chân trắng (3,421 thước 69 kb được bao gồm trong bộ gen của V.ha, chiếm 62% tổng diện tích bị bệnh hoại tử parahaemolyticus, mã hoá cho hai độc tố gâygan tụy cấp) (Tổng cục Thuỷ sản, 22/1/2015). bệnh hoại tử gan tuỵ cấp (Yang & ctv., 2014;Trong năm 2016, bệnh xảy ra tại 299 xã của 82 Han & ctv., 2015). AHPND có thể gây chết đốihuyện, thị xã thuộc 25 tỉnh của cả nước, g ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nuôi trồng thủy sản Bài viết về ngư nghiệp Đơn châu chấu Tôm thẻ chân trắng Vibrio parahaemolyticusGợi ý tài liệu liên quan:
-
78 trang 343 2 0
-
Tổng quan về việc sử dụng Astaxanthin trong nuôi trồng thủy sản
10 trang 222 0 0 -
Thông tư số 08/2019/TT-BNNPTNT
7 trang 221 0 0 -
225 trang 214 0 0
-
13 trang 203 0 0
-
Tìm hiểu các kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản (Tập 1): Phần 1
66 trang 190 0 0 -
13 trang 181 0 0
-
2 trang 180 0 0
-
Triển khai chương trình phát triển bền vững quốc gia trong ngành thủy sản
7 trang 177 0 0 -
91 trang 171 0 0