Danh mục

Hiệu quả kỹ thuật của mô hình nuôi xen tôm sú – cá kình ở Phá Tam Giang

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 202.20 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nuôi tôm ở phá Tam Giang - Cầu Hai đang đương đầu với nhiều rủi ro, tôm bị dịch bệnh, mất mùa và thua lỗ do môi trường nước bị ô nhiễm. Quy hoạch lại nuôi trồng thuỷ sản cả về không gian nuôi và hình thức nuôi là giải pháp quan trọng cho tình hình trên. Nuôi xen canh tôm sú với cá kình được áp dụng ngày càng nhiều hơn. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp màng bao dữ liệu theo hướng đầu vào dưới sự biến đổi theo quy mô (input-oriented VeriableReturn-to-Scale Data Envolope Nalayis) để ước lượng và phân tích tính hiệu quả kỹ thuật sử dụng các yếu tố đầu vào của các hộ nuôi xen tôm sú – cá kình ở phá Tam Giang.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiệu quả kỹ thuật của mô hình nuôi xen tôm sú – cá kình ở Phá Tam Giang TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 62, 2010 HIỆU QUẢ KỸ THUẬT CỦA MÔ HÌNH NUÔI XEN TÔM SÚ – CÁ KÌNH Ở PHÁ TAM GIANG Tôn Nữ Hải Âu, Bùi Dũng Thể Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huê TÓM TẮT Nuôi tôm ở phá Tam Giang - Cầu Hai đang đương đầu với nhiều rủi ro, tôm bị dịch bệnh, mất mùa và thua lỗ do môi trường nước bị ô nhiễm. Quy hoạch lại nuôi trồng thuỷ sản cả về không gian nuôi và hình thức nuôi là giải pháp quan trọng cho tình hình trên. Nuôi xen canh tôm sú với cá kình được áp dụng ngày càng nhiều hơn. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp màng bao dữ liệu theo hướng đầu vào dưới sự biến đổi theo quy mô (input-oriented VeriableReturn-to-Scale Data Envolope Nalayis) để ước lượng và phân tích tính hiệu quả kỹ thuật sử dụng các yếu tố đầu vào của các hộ nuôi xen tôm sú – cá kình ở phá Tam Giang. Kết quả cho thấy chỉ số hiệu quả kỹ thuật khá cao, bình quân là 0,91. Nguyên nhân chính của phi hiệu quả là do quy mô không hợp lý. Nhóm hộ nuôi trong vùng quy hoạch sản xuất có hiệu quả hơn nhóm hộ nuôi ngoài vùng quy hoạch. 1. Đặt vấn đề Hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai ở tỉnh Thừa Thiên Huế là hệ đầm phá lớn nhất Đông Nam Á và tiêu biểu nhất trong số 12 đầm phá ven bờ Việt Nam. Từ năm 1994, tỉnh Thừa Thiên Huế đã xác định nuôi trồng thuỷ sản như một ngành kinh tế mũi nhọn của vùng [6]. Phát triển nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là hoạt động nuôi tôm đã mang lại diện mạo mới cho vùng đầm phá. Tuy nhiên việc quản lý và sử dụng tài nguyên đầm phá chưa hợp lý và sự phát triển nuôi trồng thuỷ sản thiếu quy hoạch đã làm môi trường nước bị ô nhiễm, tôm bị dịch bệnh, nuôi tôm bị mất mùa, thua lỗ trong những năm gần đây [9,10]. Nhằm hạn chế rủi ro và dịch bệnh trong nuôi thủy sản, nuôi xen canh tôm với các loại thuỷ sản khác được thử nghiệm và áp dụng ở vùng đầm phá. Nuôi xen tôm sú (Peneaus monodon) – cá kình (Siganus oramin) là mô hình được áp dụng phổ biến ở vùng đầm phá này trong những năm gần đây. Để có các giải pháp nâng cao hiệu quả của mô hình nuôi xen canh này cần phải đánh giá các yếu tố đầu vào đã được sử dụng một cách tối ưu hay chưa. Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi đã tiến hành áp dụng phương pháp màng bao dữ liệu (Data Envelopment Analysis – DEA) để nghiên cứu “Hiệu quả kỹ thuật của mô hình nuôi xen tôm sú – cá kình ở phá Tam Giang”. Nghiên cứu này tìm hiểu thực trạng áp dụng mô hình nuôi xen tôm sú – cá kình, trên cơ sở đó tính toán và 15 đánh giá mức hiệu quả kỹ thuật mà từng hộ thực sự đạt được trong vụ nuôi năm 2008, và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào. 2. Phương pháp nghiên cứu Nuôi xen tôm sú-cá kình được áp dụng phổ biến ở hai huyện Quảng Điền và Hương Trà. Số liệu thứ cấp sử dụng trong nghiên cứu được thu thập từ phòng Thống kê và phòng Nông nghiệp của hai huyện. Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua điều tra nông hộ nuôi xen tôm sú – cá kình ở Quảng An và Quảng Thành thuộc huyện Quảng Điền và xã Hương Phong thuộc huyện Hương Trà. Mẫu điều tra gồm 44 hộ, trong đó có 17 hộ ở xã Quảng An, 10 hộ ở xã Quảng Thành, và 17 hộ ở xã Hương Phong, thuộc huyện Hương Trà. Mẫu chọn điều tra được thực hiện theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên. Trong mẫu điều tra có 10 hộ nuôi xen tôm sú-cá kình trong khu vực đã được quy hoạch và 34 hộ còn lại nuôi ở địa bàn chưa được quy hoạch. Hiệu quả kinh tế trong sản xuất là tích của hiệu quả kỹ thuật (TE) với hiệu quả về giá (AE). Hiệu quả kỹ thuật có thể ước tính theo các phương pháp khác nhau. Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích màng bao dữ liệu (DEA). Phương pháp này được Charnes, Cooper, và Rhodes phát triển vào năm 1978, dựa trên nghiên cứu của Farrell (1957). Khác với phương pháp hàm sản xuất tối đa ngẫu nhiên (Stochastic Production Frontier – SPF) sử dụng phương pháp kinh tế lượng, DEA liên quan đến phương pháp lập trình toán học (mathematical programming) để ước lượng hiệu quả xuất. So với phương pháp SPF, DEA có ưu điểm là có thể áp dụng được cho cả trường hợp đa đầu ra. Hơn nữa, DEA là phương pháp phi tham số (non-parametric), không cần phải xây dựng trước những giả thiết về một dạng hàm sản xuất cụ thể và giả thiết về phân phối của sai số ngẫu nhiên như trong SPF. Xét trường hợp có n hộ nuôi xen tôm sú – cá kình. Mỗi hộ sử dụng K yếu tố đầu vào để sản xuất ra M loại thuỷ sản khác nhau. K yếu tố đầu vào trong nghiên cứu này là tổng chi phí giống, lao động và lượng thức ăn đầu tư cho vụ nuôi xen tôm sú – cá kình năm 2008. M đầu ra là tôm sú, cá kình và sản phẩm khác (chủ yếu là cua) thu hoạch trong năm. Vector đầu vào và đầu ra cho hộ thứ i lần lượt là xit và yit. Dữ liệu của tất cả các hộ nuôi được ký hiệu bởi KxN ma trận đầu vào (X) và MxN - ma trận đầu ra (Y). Mô hình màng bao dữ liệu theo hướng đầu vào, biến đổi theo quy mô đầu tư (inputoriented VRS DEA) có dạng như sau: min   , j Subject to Y  y xi  X N  i 1 i 1 i  0 16 Trong đó, là chỉ số hiệu quả kỹ thuật (TE). TE có giá trị từ 0 đến 1. Hộ sản xuất nào có bằng 1 thì hộ đó được coi là đạt hiệu quả kỹ thuật và nằm trên màng bao dữ liệu. Vector  được xác định bởi mối quan hệ tuyến tính giữa các hộ nuôi cùng nhóm với hộ nuôi thứ i. Y là vector đầu ra, X là vector đầu vào. 3. Kết quả và thảo luận Kết quả điều tra cho thấy, bình quân mỗi hộ đầu tư khoảng 6,5 triệu đồng tiền giống, trên 1100 kg thức ăn (kể cả thức ăn tươi và thức ăn công nghiệp) và hơn 1500 giờ lao động cho mỗi hecta ao nuôi. Hộ nuôi trong vùng chưa quy hoạch phải đầu tư chi phí giống và thức ăn cao hơn, gần gấp đôi so với hộ nuôi trong vùng đã quy hoạch. Tuy nhiên, mức đầu tư lao động của hai nhóm hộ này không quá khác biệt (Bảng 1). Bình quân mỗi hecta nuôi xen tôm sú – cá kình có thể sản xuất ra khoảng 270 kg tôm sú, gần 190 kg cá kình và gần 40 kg cua. Ao nuôi nằm trong vùng quy hoạch có năng suất tôm sú cao hơn so với ao nuôi ở vùng chưa quy hoạch. Tuy nhiên, năng suất cá kình và cua của ao nuôi nằm trong vùng chưa quy hoạch cao h ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: