![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Hình tượng con người công dân và con người cá nhân trong văn học Việt nam trung đại_4
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 131.86 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Quốc tộ như đằng lạc Nam thiên lí thái bình Vô vi cư điện các Xứ xứ tức đao binh (Quốc tộ - Pháp Thuận)Và đến nửa cuối TK XVIII cho đến hết TK XIX,
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hình tượng con người công dân và con người cá nhân trong văn học Việt nam trung đại_4Hình tượng con người công dân và con người cá nhân trong văn học Việt nam trung đại Quốc tộ như đằng lạc Nam thiên lí thái bình Vô vi cư điện các Xứ xứ tức đao binh (Quốc tộ - Pháp Thuận)Và đến nửa cuối TK XVIII cho đến hết TK XIX, hình tượng con ngườicá nhân trong thơ Đường luật lại chiếm ưu thế cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Nhiều bài thơ mang cảm hững thế sự của Nguyễn Du,Nguyễn Khuyến, … nhiều nhân vật khẳng định cái đẹp bản thể, cái tài hoa, sự sáng tạo của mình qua thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Cao Bá Quát, … Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo Kìa, đền thái thú đứng cheo leo Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu (Đề đền Sầm Nghi Đống – Hồ Xuân Hương)Ở truyện thơ lục bát, các ngâm khúc hình thức song thất lục bát, các bàihát nói, hình tượng con nhân cá nhân chiếm ưu thế tuyệt đối so với con người công dân. 2.2.2. Xét ở cấp độ ngôn từ Thứ nhất, hình tượng con người công dân gắn liền với những hình ảnh và từ ngữ mang tính điển phạm. Và, điều dễ nhận thấy nhất khi xâydựng con người công dân, các nhà thơ luôn dùng hệ thống điển tích, lớptừ Hán Việt như một điều tất yếu. Xin đọc đoạn đầu trong Hịch tướng sĩ, hay mấy câu phú của Trương Hán Siêu sau đây để minh hoạ: Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt …. Học Tử Trường chừ thú tiêu dao Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều, … Đại từ nhân xưng cũng mang tính ước lệ: ta, khanh, thiên tử, bề tôi, … được dùng phổ biến.Thứ hai, hình tượng con người cá nhân gắn liền với lớp từ thuần Nôm,dân gian, từ láy, từ tự xưng, thậm chí cả những câu chửi, tiếng gào, … Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như (Độc Tiểu Thanh ký – Nguyễn Du) Chém cha cái kiếp lấy chồng chung Nửa đắp chăn bông nửa lạnh lùng (Làm lẽ - Hồ Xuân Hương) Vũ trụ nội mạc phi phận sự Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng (Bài ca ngất ngưởng – Nguyễn Công Trứ) Đù mẹ nhân tình đù mẹ đời Lạt như nước ốc, bạc như vôi (Thói đời – Nguyễn Công Trứ) … 2.2.3. Sự manh nha của câu thơ điệu nóiCác nhà thi pháp học cho rằng câu thơ, giọng thơ của văn học Việt Namtrung đại là câu thơ điệu ngâm. Tức là câu thơ không thể hiện dấu ấn cá nhân của chủ thể trữ tình. Song, từ thực tế khảo sát văn học Việt Namtrung đại đặc biệt từ Hồ Xuân Hương trở về sau, chúng tôi thấy đã có sự manh nha của câu thơ điệu nói.Ở câu thơ điệu nói các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, câu thơ điệu nóicó thể cho phép nhà thơ thể hiện rõ ràng, dứt khoát lập trường tư tưởng,tình cảm của cá nhân trữ tình. Câu thơ trở thành lời nói cá thể, nó có ngữkhí từ, câu hỏi, câu cảm thán, hướng tới một ai đó, hoặc hướng tới chính người đọc, theo kiểu tự bộc bạch, tâm sự với bạn bè.Câu thơ điệu nói giải phóng giọng điệu cá thể, làm cho nó hiện ra trên bềmặt, đồng thời cải tạo lại chất nhạc của thơ – không phải nhạc trầm bỗng réo rắc do phối hợp bằng trắc tạo nên mà là do tiếng người, ngữ điệu người, giọng điệu người. Thành phần của lời thơ trữ tình điệu nói rất đa dạng. Có các hư từ, cáccách lập luận, các khẩu hiệu, có tiếng hô lời chào, lời chêm, câu hỏi, đối đáp, có cách vắt dòng, nhiều khi cả khổ thơ chỉ là một câu. Đọc thơ Nguyễn Công Trứ, không khó để ta có thể chọn dẫn chứng minh hoạ: Tao ở nhà tao tao nhớ mi Nhớ mi tao mới bước chân đi (Bỡn nhân tình) Nguyễn Khuyến có khi dùng hàng loạt những hư từ để đưa vào thể thơ được cho là niêm luật phải chặt chẽ nhất: thơ Đường luật: Cũng cờ cũng biển cũng cân đai Cũng gọi ông nghè có kém ai Một Tú Xương chửi đổng: Đù cha đù mẹ cái dát giường Đêm nằm chỉ thấy những đau thương Đến mai mua nứa ông mần lại Đù mẹ đù cha cái dát giường (Chửi dát giường)Chúng tôi cho rằng đó là sự manh nha của câu thơ điệu nói, điều đặc biệt quan trọng ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hình tượng con người công dân và con người cá nhân trong văn học Việt nam trung đại_4Hình tượng con người công dân và con người cá nhân trong văn học Việt nam trung đại Quốc tộ như đằng lạc Nam thiên lí thái bình Vô vi cư điện các Xứ xứ tức đao binh (Quốc tộ - Pháp Thuận)Và đến nửa cuối TK XVIII cho đến hết TK XIX, hình tượng con ngườicá nhân trong thơ Đường luật lại chiếm ưu thế cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Nhiều bài thơ mang cảm hững thế sự của Nguyễn Du,Nguyễn Khuyến, … nhiều nhân vật khẳng định cái đẹp bản thể, cái tài hoa, sự sáng tạo của mình qua thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Cao Bá Quát, … Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo Kìa, đền thái thú đứng cheo leo Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu (Đề đền Sầm Nghi Đống – Hồ Xuân Hương)Ở truyện thơ lục bát, các ngâm khúc hình thức song thất lục bát, các bàihát nói, hình tượng con nhân cá nhân chiếm ưu thế tuyệt đối so với con người công dân. 2.2.2. Xét ở cấp độ ngôn từ Thứ nhất, hình tượng con người công dân gắn liền với những hình ảnh và từ ngữ mang tính điển phạm. Và, điều dễ nhận thấy nhất khi xâydựng con người công dân, các nhà thơ luôn dùng hệ thống điển tích, lớptừ Hán Việt như một điều tất yếu. Xin đọc đoạn đầu trong Hịch tướng sĩ, hay mấy câu phú của Trương Hán Siêu sau đây để minh hoạ: Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt …. Học Tử Trường chừ thú tiêu dao Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều, … Đại từ nhân xưng cũng mang tính ước lệ: ta, khanh, thiên tử, bề tôi, … được dùng phổ biến.Thứ hai, hình tượng con người cá nhân gắn liền với lớp từ thuần Nôm,dân gian, từ láy, từ tự xưng, thậm chí cả những câu chửi, tiếng gào, … Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như (Độc Tiểu Thanh ký – Nguyễn Du) Chém cha cái kiếp lấy chồng chung Nửa đắp chăn bông nửa lạnh lùng (Làm lẽ - Hồ Xuân Hương) Vũ trụ nội mạc phi phận sự Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng (Bài ca ngất ngưởng – Nguyễn Công Trứ) Đù mẹ nhân tình đù mẹ đời Lạt như nước ốc, bạc như vôi (Thói đời – Nguyễn Công Trứ) … 2.2.3. Sự manh nha của câu thơ điệu nóiCác nhà thi pháp học cho rằng câu thơ, giọng thơ của văn học Việt Namtrung đại là câu thơ điệu ngâm. Tức là câu thơ không thể hiện dấu ấn cá nhân của chủ thể trữ tình. Song, từ thực tế khảo sát văn học Việt Namtrung đại đặc biệt từ Hồ Xuân Hương trở về sau, chúng tôi thấy đã có sự manh nha của câu thơ điệu nói.Ở câu thơ điệu nói các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, câu thơ điệu nóicó thể cho phép nhà thơ thể hiện rõ ràng, dứt khoát lập trường tư tưởng,tình cảm của cá nhân trữ tình. Câu thơ trở thành lời nói cá thể, nó có ngữkhí từ, câu hỏi, câu cảm thán, hướng tới một ai đó, hoặc hướng tới chính người đọc, theo kiểu tự bộc bạch, tâm sự với bạn bè.Câu thơ điệu nói giải phóng giọng điệu cá thể, làm cho nó hiện ra trên bềmặt, đồng thời cải tạo lại chất nhạc của thơ – không phải nhạc trầm bỗng réo rắc do phối hợp bằng trắc tạo nên mà là do tiếng người, ngữ điệu người, giọng điệu người. Thành phần của lời thơ trữ tình điệu nói rất đa dạng. Có các hư từ, cáccách lập luận, các khẩu hiệu, có tiếng hô lời chào, lời chêm, câu hỏi, đối đáp, có cách vắt dòng, nhiều khi cả khổ thơ chỉ là một câu. Đọc thơ Nguyễn Công Trứ, không khó để ta có thể chọn dẫn chứng minh hoạ: Tao ở nhà tao tao nhớ mi Nhớ mi tao mới bước chân đi (Bỡn nhân tình) Nguyễn Khuyến có khi dùng hàng loạt những hư từ để đưa vào thể thơ được cho là niêm luật phải chặt chẽ nhất: thơ Đường luật: Cũng cờ cũng biển cũng cân đai Cũng gọi ông nghè có kém ai Một Tú Xương chửi đổng: Đù cha đù mẹ cái dát giường Đêm nằm chỉ thấy những đau thương Đến mai mua nứa ông mần lại Đù mẹ đù cha cái dát giường (Chửi dát giường)Chúng tôi cho rằng đó là sự manh nha của câu thơ điệu nói, điều đặc biệt quan trọng ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
văn lớp 12 những bài văn 12 ôn thi văn tài liệu văn 12 chọn lọc tuyển tập những bài văn hay 12Tài liệu liên quan:
-
Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn: Phần 2
140 trang 101 0 0 -
Đọc hiểu bài thơ Thu hứng 1 của Đỗ Phủ_1
7 trang 27 0 0 -
Ôn thi: Bình giảng đoạn thơ: Bên kia sông Đuống
8 trang 24 0 0 -
Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn: Phần 1
117 trang 23 0 0 -
Đáp án, thang điểm đề thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2009 môn: Văn, khối C
4 trang 20 0 0 -
Tìm hiểu bài thơ Đất nước (Nguyễn Đình Thi)
8 trang 20 0 0 -
DÀN Ý PHÂN TÍCH BÀI THƠ TỎ LÒNG - PHẠM NGŨ LÃO
5 trang 19 0 0 -
Đề Thi Thử Tốt Nghiệp Văn 2013 - Phần 4 - Đề 15
4 trang 18 0 0 -
Đề thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2006 môn Văn khối C 2006
0 trang 18 0 0 -
THU ĐIẾU, THU ẨM, THU VỊNH – NGUYỄN KHUYẾN_3
7 trang 17 0 0