Danh mục

Hồ Nguyên Trừng và Nam Ông mộng lục

Số trang: 5      Loại file: doc      Dung lượng: 45.50 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Hồ Nguyên Trừng (chữ Hán: 胡元澄, 1374? - 1446?), nguyên họ Lê, tự: Mạnh Nguyên, hiệu: Nam Ông; là nhà kỹ thuật quân sự và là nhà văn Việt Nam ở thế kỷ 15.Ông là người huyện Vĩnh Phúc, lộ Thanh Hoa (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa); là con trai cả của vua Hồ Quý Ly, và là anh của vua Hồ Hán Thương.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hồ Nguyên Trừng và Nam Ông mộng lụcHồ Nguyên Trừng và Nam Ông mộng lụcNam Ông mộng lục (Chép lại những giấc mộng của Nam Ông), là tập hồiký chữ Hán đầu tiên và là tác phẩm đầu tiên mở đường cho khuynh hướngviết về “người thực, việc thực” trong văn xuôi tự sự Việt Nam do HồNguyên Trừng soạn trong thời gian bị bắt đưa sang Trung Quốc vào thếkỷ 15.1. Tác giả:Hồ Nguyên Trừng (không rõ năm sinh và năm mất) [1], nguyên họ Lê, têntự: Mạng Nguyên, biệt hiệu: Nam Ông); là người huyện Vĩnh Phúc, lộThanh Hoa (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa). Ông là con trai cả của vua Hồ QuýLy, và là anh của vua Hồ Hán Thương trong lịch sử Việt Nam.Dưới triều nhà Trần, Hồ Nguyên Trừng từng giữ chức Thượng Lân tự,Tư đồ. Đầu năm 1400, cha ông truất ngôi Trần Thiếu Đế, tự lên ngôi vua,lập nên nhà Hồ. Sau đó, Hồ Nguyên Trừng được cử làm Tả tướng quốc.Năm 1405, vua nhà Minh lấy cớ đòi đất Lộc Châu cử quân sang đánhnước Việt. Năm 1406, Hồ Nguyên Trừng được giao nhiệm vụ cầm quânchống lại.Ngày 12 tháng 5 (âm lịch) năm Đinh Hợi (1407), cả ba cha con ông vàngười cháu là Hồ Nhuế (con Hồ Hán Thương) đều bị quân nhà Minh bắttại Kỳ La (Kỳ Anh, Hà Tĩnh), rồi bị áp giải về Kim Lăng (Nam Kinh,Trung Quốc). Kể từ đó, nhà Hồ mất, cả nước Việt rơi vào ách thống trịcủa nhà Minh.Biết được Hồ Nguyên Trừng (và Hồ Nhuế) có tài năng, vua Minh AnhTông cho ân xá, nhưng buộc phải đổi họ khác (vì không thừa nhận giađình ông là dòng dõi Ngu Thuấn[2]). Vì vậy ở sách Nam Ông mộng lục,tác giả đề tên là Lê Trừng (đổi lại họ Lê như cũ).Sau, ông chế được súng thần công, nên lại được làm quan ở bộ Công,thăng đến chức Tả thị lang như lời ông đề ở cuối bài Tựa trong quyểnNam Ông mộng lục.2. Giới thiệu sơ lược:Mặc dù phải sống lưu vong ở nước người, Hồ Nguyên Trừng vẫn tưởngvọng về cố quốc, nên tự gọi là Nam Ông (Ông già nước Nam). Bằng hồiức của mình, tác giả đã viết lại các mẫu chuyện về những con người ởnước Nam tài đức mà mình không còn được nhìn thấy nữa, và ông coi đónhư là một giấc mộng, nên đặt cho tên sách là Nam Ông mộng lục.Tác phẩm gồm 31 thiên, hiện chỉ còn 28 thiên (ba thiên thiếu đều nằm sauthiên 23, đó là: Mệnh thông thi triệu, Thi chí công danh, Tiểu thi lệ cú).Sách được in lần đầu vào năm 1442 ở Trung Quốc (năm này tương ứngvới thời Lê sơ ở Việt Nam), nằm trong Tập IX của bộ Tùng thư Hàm lâubí kíp.Trong sách có bài tựa của Hồ Huỳnh (người nhà Minh, làm Thượng thưđồng triều với tác giả), viết năm 1440); thứ đến bài tựa của tác giả đềnăm 1438. Cuối sách có bài hận tự của Tống Chương (người Việt Nam,làm quan cho triều Minh), viết năm 1442. Sau cùng là bài bạt của Tôn DụcTú, viết năm 1440, nói về việc xuất bản sách này.Nội dung sách ghi chép về các sử thoại và một số chuyện về những nhânvật nước Nam thời Lý - Trần, gồm đủ loại: nhà Nho, thầy thuốc, đạo sĩ,nhà thơ, thầy tu, tướng sĩ, các vua đời Trần, hoặc bà con thân thích với tácgiả. Đối với Hồ Nguyên Trừng, đó là những sự kiện và những con ngườitiêu biểu của nước Nam.Năm 1999, Nam Ông mộng lục đã được Ưu Đàm và La Sơn cùng dịch,Nguyễn Đăng Na giới thiệu và chú giải, nhà xuất bản Văn học (Hà Nội)ấn hành.3. Bài Tựa (bản dịch):Sách Luận ngữ từng nói: Trong cái xóm mười nhà, thế nào cũng có ngườitrung tín như Khâu (tên của Khổng Tử) này vậy, huống hồ nhân vật cõiNam Giao (chỉ Việt Nam ngày nay) từ xưa đã đông đúc, lẽ nào vì nơi hẻolánh mà vội cho là không có nhân tài! Trong lời nói, việc làm, trong tàinăng của người xưa có nhiều điều khả thủ, chỉ vì qua cơn binh lửa, sáchvở cháy sạch, thành ra những điều đó đều bị mất mát cả, không còn đượcai nghe, há chẳng đáng tiếc lắm sao? Nghĩ tới điểm này, tôi thường tìmghi những việc cũ, nhưng thấy mất mát gần hết, trong trăm phần chỉ cònđược một hai; bèn góp lại thành một tập sách đặt tên là Nam Ông mộnglục phòng khi có người đọc tới! Một là để biểu dương các mẫu việcthiện của người xưa, hai là để cung cấp điều mới lạ cho người quân tử,tuy đóng khung trong vòng truyện vặt, nhưng cũng là để góp vui những lúcvui chuyện.Có kẻ hỏi tôi rằng: “Những người ông chép đều là người thiện, vậy thìtrong các truyện bình sinh ông nghe thấy, lại chẳng có chuyện nào bấtthiện ư?” Tôi trả lời họ rằng: “Chuyện thiện tôi rất mê nghe, nên có thểnhớ được, còn chuyện bất thiện thì không phải không có, chẳng qua tôikhông nhớ đấy thôi”. Họ lại hỏi: “Sách lấy tên là mộng, ý nghĩa ở chỗnào?” Tôi trả lời: “Nhân vật trong sách, xưa kia rất phong phú, chỉ vì đờithay việc đổi, dấu tích hầu như không để lại, thành ra còn mỗi một mìnhtôi biết chuyện và kể lại mà thôi, thế không phải mộng là gì? Các bậc đạinhân quân tử có thấu cho chăng? Còn hai tiếng Nam Ông thì chính là tênchữ, của Trừng tôi vậy”!Ngày Trùng cửu năm Mậu Ngọ, niên hiệu Chính Thống (tức Minh AnhTông) thứ ba (1438).Lê Trừng, tên chữ là Mạnh Nguyên, người xứ Nam Giao, giữ chức ChínhNghị đại phu, Tư trị doãn, Công bộ tả thị lang, đề tựa.4. Mục lục:Sách Nam Ông mộng lục không chia số quyển, trong mục lục có đề 31thi ...

Tài liệu được xem nhiều: