Danh mục

Hóa học lượng tử

Số trang: 13      Loại file: pdf      Dung lượng: 714.21 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Hóa học lượng tử được sinh ra từ sự toán hóa ngành hóa học bằng Cơ học lượng tử. Việc áp dụng các phương pháp tính toán vào các vấn đề hóa học dựa trên cơ sở những tiên đề chính của Cơ học lượng tử, mà nội dung chính của chúng có thể được tóm tắt như sau: (i) hàm sóng Ψ(x) của một hạt cơ bản (hay một hệ các hạt cơ bản) chứa đựng mọi thông tin cần biết liên quan đến hệ đó (trong không gian một chiều). Ý nghĩa vật lý của hàm số sóng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hóa học lượng tử Hóa học lượng tử Tính ToánHóa học lượng tử được sinh ra từ sự toán hóa ngành hóa học bằng Cơ học lượngtử. Việc áp dụng các phương pháp tính toán vào các vấn đề hóa học dựa trên cơ sởnhững tiên đề chính của Cơ học lượng tử, mà nội dung chính của chúng có thểđược tóm tắt như sau:(i) hàm sóng Ψ(x) của một hạt cơ bản (hay một hệ các hạt cơ bản) chứa đựng mọithông tin cần biết liên quan đến hệ đó (trong không gian một chiều). Ý nghĩa vật lýcủa hàm số sóng được diễn tả thông qua bình phương của hàm số sóng, |Ψ(x)(x)|2.dx,đại lượng này cho biết xác xuất tìm thấy hệ lượng tử trong khoảng không gian (x,x+dx) được xác định bởi hàm sóng đó;(ii) mọi tính chất quan sát được, hay đại lượng vật lý đo được, của hệ đều có thểxác định được từ Ψ(x) thông qua một toán tử tương ứng;(iii) cho một tính chất hay đại lượng g, một toán tử Ĝ tương ứng được định nghĩa;áp dụng toán tử Ĝ trên Ψ(x) dẫn đến phương trình trị số riêng Ĝ.Ψ(x) = g.Ψ(x), vàkhi giải phương trình này, các trị số riêng g được xác định. Sau khi được chuẩnhóa, ta nhận được giá trị trung bình cho trị số riêng g trên.Vào năm 1926, Schrödinger triển khai toán tử cho năng lượng E, được gọi làHamiltonian Ĥ, và thành lập phương trình riêng mang tên ông:i Ĥ Ψ(x) = E Ψ(x) (1)Trong hóa học, đại lượng quan trọng nhất là năng lượng E của một nguyên tử,phân tử hay siêu phân tử (gồm những nhân nguyên tử và electron), và sự thay đổinăng lượng dọc theo tọa độ của phản ứng hóa học. Người làm hóa học cần có cácthông tin này để hiểu diễn biến và cơ chế của phản ứng hóa học dựa trên nhữngnguyên lý của nhiệt động lực học và động học, và để có thể kiểm soát hay thay đổiđược chúng. Cung cấp thông tin về năng lượng của một hệ phân tử ở mọi trọngthái electron hay thể loại là một mục đích chính của việc áp dụng những nguyên lýCơ học lượng tử vào hóa học. Từ đó đến nay, khởi đi từ những năm đầu của thậpniên 1930, lịch sử của Cơ học lượng tử là một chuỗi dài và liên tục những cố gắnglớn của nhiều nhà khoa học trong nhiều ngành khoa học (hóa, toán, vật lý, tin học)nhằm tìm cách giải phương trình (1) để xây dựng hàm số sóng Ψ(x) cho các hệphân tử. Phải nói là những “cố gắng lớn” bởi vì toán tử Ĥ cho một phân tử baogồm động năng và thế năng của các nhân và electron, cộng với năng lượng tươngtác giữa chúng dẫn đến những tích phân đa tâm phức tạp. Những tích phân này,nhất là các tích phân trong thế năng tương tác đẩy giữa các electron, dẫn đến việckhông thể giải được chính xác phương trình (1) bằng các phương pháp toán giảitích cho những hệ đa điện tử.Song việc áp dụng phương trình Schrödinger đã không bị dừng lại mà đã từngbước phát triển, đặt nền móng cho ngành Cơ học lượng tử và góp phần mở rộngcơ sở lý thuyết cho hóa học hiện đại. Những thành tựu của Hóa học lượng tử trong60 năm qua luôn dựa vào những bước đi trên hai chân. Ngay từ những ngày đầucho đến nay, hướng đi chính là phát triển các phương pháp tính thích hợp để xâydựng nên những hàm số sóng (mà về tính chất là những hàm số sóng gần đúng), sosánh kết quả với thực nghiệm và tìm cách phát triển lý thuyết để cải thiện. Mộtmặt, với mỗi phương pháp mới được đề nghị, năng lượng và những tính chất hóahọc khác tính được từ hàm sóng đã được áp dụng vào các phân tử cụ thể để hiểunhững thông tin và giải thích các hiện tượng hóa học cơ bản nhận được từ thựcnghiệm. Mục đích cuối cùng là vượt qua kết quả từ các con tính trên các phân tửriêng lẽ để tìm những mô hình và khái niệm chung. Mặt khác, việc cải thiện chấtlượng của Ψ(x) và E luôn được tiếp tục bằng các phương pháp tính toán hoàn thiệnhơn (thường được gọi là “phương pháp cao hơn”) với những con tính luôn phứctạp hơn nhiều lần, để đạt được những trị số có độ chính xác cao hơn so với thựcnghiệm.Trên con đường dài này, ngoài kiến thức về chuyên ngành cũng như về các kỹthuật tính toán, những chiếc máy tính điện tử luôn có mặt bên cạnh những ngườilàm Hóa học lượng tử; Máy tính điện tử vừa là công cụ làm việc thân thuộc hàngngày, vừa là những người đồng hành tin cậy … Mỗi bước tiến bộ của Hóa họclượng tử, về phương pháp cũng như độ chính xác, đều gắn liền với một giai đoạnphát triển mới của khoa học và công nghệ thông tin, hay cụ thể hơn, với một thế hệmáy tính điện tử.Trong khuôn khổ của kỷ yếu này (với nhiều độc giả không ở trong ngành hóa học),chúng tôi không có ý định đi vào chi tiết về phương pháp tính toán phức tạp củaHóa học lượng tử, mà muốn ghi lại vài nét chấm phá về lịch sử của nó để nêu ranhững đóng góp của các khái niệm lượng tử trong phát triển của hóa học hiện đại.Áp dụng đầu tiên của phương trình Schrödinger trên nguyên tử hydrogen (H,nguyên tử nhỏ nhất) dẫn đến khái niệm “orbital nguyên tử” (atomic orbital, viết tắclà AO), và tiếp theo, việc giải phương trình này cho H2+ (phân tử nhỏ nhất) đưađến khái niệm “orbital phân tử” (molecular orbital; mỗi MO là một tổ ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu cùng danh mục:

Tài liệu mới: