Ngay sau khi Mỹ hất cẳng Pháp để xâm chiếm nước ta, công việc đầu tiên của Cách mạng là cùng với việc chuyển quân tập kết, ta tiến hành ngay việc ”thu hồi tiền Việt Nam rút lui trận địa tiền tệ miền Nam Việt Nam” thu đổi giấy bạc của ta phát hành ở Nam bộ và tiền tín phiếu phát hành ở liên khu V (Trung bộ), nhằm mục đích bảo vệ tài sản của nhân dân, bảo vệ giá trị tiền ta, giữ vững lòng tin của nhân dân đối với chính quyền cách mạng......
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hoạt động tiền tệ, ngân hàng trong thời kỳ Cách mạng giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ quốc
Hoạt động tiền tệ, ngân hàng trong thời kỳ Cách mạng giải phóng
Miền Nam, thống nhất Tổ quốc
Ngay sau khi Mỹ hất cẳng Pháp để xâm chiếm nước ta, công việc đầu tiên của Cách mạng là
cùng với việc chuyển quân tập kết, ta tiến hành ngay việc ”thu hồi tiền Việt Nam rút lui trận
địa tiền tệ miền Nam Việt Nam” thu đổi giấy bạc của ta phát hành ở Nam bộ và tiền tín phiếu
phát hành ở liên khu V (Trung bộ), nhằm mục đích bảo vệ tài sản của nhân dân, bảo vệ giá
trị tiền ta, giữ vững lòng tin của nhân dân đối với chính quyền cách mạng. Trong giai đoạn
này “thời kỳ chiến tranh đơn phương và chiến tranh đặc biệt 1955 – 1964”, công tác tiền tệ
ngoài việc thanh lý tài sản của Nhà nước và thu hồi tín phiếu, còn phải làm tốt công việc
quản lý thị trường tiền tệ và vật giá khá phức tạp trong tình hình mới. Trong những tháng
ngắn ngủi trước khi rút đi, chính quyền cách mạng còn phải lo giúp đỡ nhân dân phục hồi sản
xuất và đảm bảo sinh hoạt bình thường ở những vùng bị địch càn quét và vùng bị thiên tai, tín
dụng ngân hàng trong những ngày cuối thời gian tập kết chuyển quân vẫn phải xuất vốn cho
nông dân và ngư dân vay để có lương ăn và mua lúa giống, trâu bò cày, lưới đánh cá, đặc
biệt là để phục hồi ruộng bỏ hoang hóa trong vành đai trắng. Việc làm này có tác dụng chính
trị và kinh tế rất tốt, đã để lại trong lòng nhân dân tình cảm sâu sắc đối với chính quyền cách
mạng. Chính sách rút lui trận địa tiền tệ đã có tác dụng để lại trong lòng nhân dân miền Nam
những ấn tượng khá sâu sắc về thời kỳ 9 năm ròng sống dưới chính quyền cách mạng. Đây
đúng là một yếu tố vô cùng quan trọng, động viên tinh thần đấu tranh bất khuất bền bỉ sau
này trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, thống nhất Tổ quốc.
Để có tiền chi tiêu trong giai đoạn này, ta phải sử dụng tiền Ngụy và các loại tiền khác kể cả
tiền Đô la Mỹ. Các tổ chức hối đoái, quản lý tiền đã được thành lập ở các khu, tỉnh cũng như
cấp miền, đã áp dụng nhiều hình thức linh hoạt kể cả phương pháp đổi chuyển khoản giữa
các ngân hàng. Ưu điểm lớn của chúng ta trên mặt trận tài chính, tiền tệ trong giai đoạn này
là mỗi địa phương đã biết rút kinh nghiệm của thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tự động tổ
chức lạc quyên ngay từ đầu để phục vụ kịp thời yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang để tiến
hành cuộc chiến tranh cách mạng.
Năm 1965, Trung ương cục miền Nam đã ra Nghị quyết XI (tháng 3) và Nghị quyết XII (tháng
12) nhằm ủng cố và tăng cường được Ban kinh tài các cấp từ miền đến tỉnh, huyện. Nhiều
chính sách mới được ban hành và được thi hành nghiêm túc, nhờ đó công tác kinh tế, tài
chính, ngân hàng đã góp phần hỗ trợ ba mũi đấu tranh chính trị, quân sự và binh vận giành
thắng lợi từng phần “chiến tranh Cục bộ”, tiến tới cuộc tổng tiến công tết Mậu Thân 1968, bắt
buộc Mỹ phải chấp nhận họp hội nghị Paris với ta.
Ta đặt chế độ đảm phụ nông nghiệp theo tỷ suất lũy tiến, hình thức này được tiến hành thu
liên tục ở tất cả các vùng nông thôn, đồng bằng và rừng núi giải phóng, kết hợp thu bằng
hình thức lạc quyên tự nguyện hoặc lạc quyên có hướng dẫn mức thu. Ngoài ra, Trung ương
lại tăng cường chi viện cho miền Nam bằng Đô la tiền mặt. Trong tình hình mới, Trung ương
Cục chủ trương chuẩn bị cho in để phát hành tiền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam. Ngành ngân hàng trong những năm đầu thành lập, nhưng đã điều vào miền Nam
gần 500 cán bộ ngân hàng để chuẩn bị cho công cuộc giải phóng miền Nam.
Từ 1969, chúng ta đã mở rộng thêm công tác Ngân khố, Tín dụng. Tổ chức Kho bạc được tổ
chức theo hệ thống dọc 4 cấp Trung ương (tức Kho bạc miền) khu, tỉnh và huyện để thực
hiện cấp phát chi tiền ngân sách và phát triển một số mặt nghiệp vụ ngân hàng như: thanh
toán chuyển khoản, cho vay phục vụ sản xuất.v.v... Ngân khố bắt đầu tổ chức công tác thanh
toán không dùng tiền mặt giữa ngân sách với đơn vị và giữa cơ quan với nhau. Công tác
thanh toán không dùng tiền mặt được tiến hành qua các tài khoản của các cơ quan mở tại
ngân tín. Doanh số thanh toán không dùng tiền mặt, ta đã dùng Séc định ngạch có bảo chí.
Các hình thức thanh toán trên mặc dù còn hạn chế đã bước đầu góp phần vào việc tăng
cường quản lý tài chính vùng căn cứ giải phóng miền Nam. Công tác ngoại hối có ý nghĩa đặc
biệt đối với sự nghiệp cách mạng ở miền Nam. Nhiệm vụ đổi Đô la để có tiền Sài gòn và tiền
Ria Campuchia đáp ứng cho nhu cầu chiến đấu nhất là trong giai đoạn cuối cùng nầy của
cuộc cách mạng giải phóng Miền Nam trở thành một nhiệm vụ nặng nề và phức tạp. Trong
giai đoạn này ta đã phải mất đi hàng trăm cán bộ chiến sĩ vừa bị hy sinh vừa bị bắt, trong đó
có tới 40 cán bộ chiến sĩ ngân hàng bị hy sinh phần lớn trong các vụ đổi tiền và vận chuyển
tiền.
Từ sau Hiệp định Pari công tác tín dụng được tiến hành bằng vốn ngân sách do Trung ương
chi viện. Lúc đầu chỉ phục vụ sản xuất tự túc và cải thiện cho những cơ quan đơn vị, về sau
được mở rộng cho nhân dân trong vùng địch kiểm soát và cho đồng b ...