Học giả Nguyễn Thế Anh với bản Kiều nôm khắc in năm 1886
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 130.04 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Năm 2010, Nxb Văn học đã ấn hành cuốn “Truyện Kiều - bản Nôm Tự Đức thứ 19 Liễu Văn Đường - 1866” do học giả Nguyễn Thế Anh (1926) - Hội viên Hội ngôn ngữ Việt Nam - chuyển tự và khảo đính. Đây là phiên bản của cuốn Kiều Nôm do Liễu Văn Đường tàng bản in năm Tự Đức thứ 19 (1866), hiện đang lưu giữ tại Khu di tích Nguyễn Du ở huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh - là bản Kiều khắc in cổ nhất tính tới thời điểm hiện nay (trước đây người...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Học giả Nguyễn Thế Anh với bản Kiều nôm khắc in năm 1886 Học giả Nguyễn Thế Anh với bản Kiều nôm khắc in năm 1886Năm 2010, Nxb Văn học đã ấn hành cuốn “Truyện Kiều - bản Nôm Tự Đức thứ19 Liễu Văn Đường - 1866” do học giả Nguyễn Thế Anh (1926) - Hội viên Hộingôn ngữ Việt Nam - chuyển tự và khảo đính. Đây là phiên bản của cuốn KiềuNôm do Liễu Văn Đường tàng bản in năm Tự Đức thứ 19 (1866), hiện đang lưugiữ tại Khu di tích Nguyễn Du ở huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh - là bản Kiều khắc incổ nhất tính tới thời điểm hiện nay (trước đây người ta coi bản Liễu Văn Đường innăm Tự Đức 24 (1871) có niên đại cổ nhất). Để ấn phẩm Kiều song tự (Nôm và Quốc ngữ) này ra mắt độc giả, cụ NguyễnThế Anh đã rất kỳ công trong việc sưu tầm, khảo dị gần chục bản Kiều cổ kim vànhiều văn bản, tài liệu liên quan khác. Thay lời nói đầu bằng bài: “Vài nét vềquyển Kiều Nôm Tự Đức thứ 19 (1866)”, tác giả cho biết bản Kiều này bị mất 18tờ, tương đương 864 câu, nhưng “thật may mắn là trang bìa vẫn còn nguyên vẹn”nên xác định được niên đại khắc in bản Kiều “Tự Đức thập cửu niên trọng xuântân san” - Khắc in giữa xuân năm Tự Đức thứ 19 (1866). Cũng qua bài viếtmang tính nghiên cứu sâu về chữ nghĩa Truyện Kiều này, tác giả đã cung cấp chongười đọc những sai khác về câu chữ không chỉ giữa hai bản Kiều khắc in năm1866 (gọi tắt là bản A) và bản khắc in năm 1871 (gọi tắt là bản B) - cũng đều củaNhà sách Liễu Văn Đường - mà còn ảnh hưởng đến nhiều bản Kiều Nôm khác vềsau. Theo tác giả thì “vấn đề sự khác nhau trong câu ch ữ giữa các văn bản rấtquan trọng, nó giúp cho các nhà nghiên c ứu nhận định một cách chính xác hơnquá trình diễn biến của văn bản cũng như ảnh hưởng qua lại giữa các văn bảnđó”. Và “với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu kiệt tác Truyện Kiềucủa Nguyễn Du, chúng tôi ti ến hành phiên âm(1) để giới thiệu rộng rãi với cácnhà nghiên cứu và đông đảo bạn đọc văn bản quý hiếm này”. Sang phần nội dung, sau bài “Thi Vân” bằng chữ Hán của Phạm Quý Thích(1760-1825) - bạn thân của Thi hào Nguyễn Du - được mở đầu bằng câu “Giainhân bất thị đáo Tiền Đường” mà trước nay được coi là bài thơ Tổng vịnhTruyện Kiều đặc sắc nhất; là văn bản Truyện Kiều được thể hiện bằng chữ Nômvà chữ Quốc ngữ đối trang với nhau (trang bên trái là Qu ốc ngữ, trang bên phảilà chữ Nôm). Cách thể hiện biệt trang như thế này giữa chữ Nôm và Quốc ngữkhông những tạo được sự liền mạch một cách thuận lợi cho người đọc mà còn rấtđắc dụng trong việc tra cứu, đối chiếu chữ Nôm cho những ai có nhu cầu tìmhiểu về mặt văn bản. Càng đi sâu vào văn b ản càng thấy học giả Nguyễn ThếAnh đã công phu trong việc khảo dị. Lấy ví dụ, câu Kiều thứ 25 mà xưa nayngười ta đã nằm lòng là “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn” thì qua việc khảo dị của cụNguyễn Thế Anh đã cho biết có tới 5 dị bản thể hiện qua 5 bản Kiều. Ngay nhưbản Kiều A mà tác giả giới thiệu thì nguyên văn câu này là “Làn thu thuỷ, thấpxuân sơn”. Từ đã dị biệt như thế rồi mà chữ (chữ Nôm) thể hiện trong truyệnKiều cũng lắm rối rắm. Vẫn biết, chữ Nôm do người nước ta thời xưa chế tác vàsử dụng nhưng vẫn bị coi thường là “Nôm na mách qué” nên không đư ợc chuẩnhoá như chữ Hán, do đó khi viết rất tùy tiện. Có khi cùng một chữ thể hiện mộtâm cùng nghĩa, nhưng người Bắc viết khác người Trung, người Trung viết khácngười Nam và thế là mặc sức suy đoán “chữ tác thành chữ tộ, chữ ngộ thành chữquá”. Lại nữa, do trình độ thấp kém của thợ khắc chữ, để rồi “ngay trong một câumà có khi sai đến 2-3 chữ” - Nguyễn Thế Anh. Nói lên điều này để thấy công lao“Sinh ư nghệ, tử ư nghệ” của cụ Nguyễn Thế Anh trong quá trình “phục chế”bản Kiều đã bị mất 18 tờ gốc. Nếu không thật kỳ công trong việc cất nhắc khôngchỉ từng câu, từng chữ một thì khó mà cho ra mắt người đọc bản Kiều được chấpnhận như thế này. Cái sự “phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông” về chữ nghĩa Truyện Kiều củahọc giả Nguyễn Thế Anh thể hiện ở phần phụ lục cuối sách cũng “đường trường”lắm lắm. Chỉ một việc đắn đo giữa chữ “nghỉ” và chữ “nghĩ” trong câu “gia tưnghỉ (nghĩ) cũng thường thường bậc trung” mà tự dạng Nôm thể hiện giống nhauvốn gây tranh cãi chưa có hồi kết xưa nay, cũng thấy cách lý giải nghiêng về chữ“nghỉ” của cụ Thế Anh có tính thuyết phục hơn. Xung quanh chuyên mục chữnghĩa Truyện Kiều trong phần phụ lục này, tác giả không chỉ có bài viết rất cógiá trị mà còn tập hợp được nhiều bài của một số nhà “Kiều học” khác mang tínhhọc thuật cao lại bao hàm cả ý kiến phản biện nên càng hấp dẫn, lôi cuốn ngườiđọc. Phần phụ lục 2 gồm một số tranh ảnh tư liệu, đặc biệt là những bức tranh minhhoạ Truyện Kiều của nhiều tác giả thể hiện trên các bản Truyện Kiều xưa nayphải nói là hết sức sinh động càng làm phong phú thêm ấn phẩm Truyện Kiềunày./. Chú thích (1) Từ “phiên âm” trong trường hợp này, theo người viết bài này thì nên dùngtừ “chuyển tự” (chuyển từ dạng từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ) có lẽ chính xáchơn. Bởi chữ Nôm cũng thể hiện (ký âm) tiếng Việt như chữ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Học giả Nguyễn Thế Anh với bản Kiều nôm khắc in năm 1886 Học giả Nguyễn Thế Anh với bản Kiều nôm khắc in năm 1886Năm 2010, Nxb Văn học đã ấn hành cuốn “Truyện Kiều - bản Nôm Tự Đức thứ19 Liễu Văn Đường - 1866” do học giả Nguyễn Thế Anh (1926) - Hội viên Hộingôn ngữ Việt Nam - chuyển tự và khảo đính. Đây là phiên bản của cuốn KiềuNôm do Liễu Văn Đường tàng bản in năm Tự Đức thứ 19 (1866), hiện đang lưugiữ tại Khu di tích Nguyễn Du ở huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh - là bản Kiều khắc incổ nhất tính tới thời điểm hiện nay (trước đây người ta coi bản Liễu Văn Đường innăm Tự Đức 24 (1871) có niên đại cổ nhất). Để ấn phẩm Kiều song tự (Nôm và Quốc ngữ) này ra mắt độc giả, cụ NguyễnThế Anh đã rất kỳ công trong việc sưu tầm, khảo dị gần chục bản Kiều cổ kim vànhiều văn bản, tài liệu liên quan khác. Thay lời nói đầu bằng bài: “Vài nét vềquyển Kiều Nôm Tự Đức thứ 19 (1866)”, tác giả cho biết bản Kiều này bị mất 18tờ, tương đương 864 câu, nhưng “thật may mắn là trang bìa vẫn còn nguyên vẹn”nên xác định được niên đại khắc in bản Kiều “Tự Đức thập cửu niên trọng xuântân san” - Khắc in giữa xuân năm Tự Đức thứ 19 (1866). Cũng qua bài viếtmang tính nghiên cứu sâu về chữ nghĩa Truyện Kiều này, tác giả đã cung cấp chongười đọc những sai khác về câu chữ không chỉ giữa hai bản Kiều khắc in năm1866 (gọi tắt là bản A) và bản khắc in năm 1871 (gọi tắt là bản B) - cũng đều củaNhà sách Liễu Văn Đường - mà còn ảnh hưởng đến nhiều bản Kiều Nôm khác vềsau. Theo tác giả thì “vấn đề sự khác nhau trong câu ch ữ giữa các văn bản rấtquan trọng, nó giúp cho các nhà nghiên c ứu nhận định một cách chính xác hơnquá trình diễn biến của văn bản cũng như ảnh hưởng qua lại giữa các văn bảnđó”. Và “với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu kiệt tác Truyện Kiềucủa Nguyễn Du, chúng tôi ti ến hành phiên âm(1) để giới thiệu rộng rãi với cácnhà nghiên cứu và đông đảo bạn đọc văn bản quý hiếm này”. Sang phần nội dung, sau bài “Thi Vân” bằng chữ Hán của Phạm Quý Thích(1760-1825) - bạn thân của Thi hào Nguyễn Du - được mở đầu bằng câu “Giainhân bất thị đáo Tiền Đường” mà trước nay được coi là bài thơ Tổng vịnhTruyện Kiều đặc sắc nhất; là văn bản Truyện Kiều được thể hiện bằng chữ Nômvà chữ Quốc ngữ đối trang với nhau (trang bên trái là Qu ốc ngữ, trang bên phảilà chữ Nôm). Cách thể hiện biệt trang như thế này giữa chữ Nôm và Quốc ngữkhông những tạo được sự liền mạch một cách thuận lợi cho người đọc mà còn rấtđắc dụng trong việc tra cứu, đối chiếu chữ Nôm cho những ai có nhu cầu tìmhiểu về mặt văn bản. Càng đi sâu vào văn b ản càng thấy học giả Nguyễn ThếAnh đã công phu trong việc khảo dị. Lấy ví dụ, câu Kiều thứ 25 mà xưa nayngười ta đã nằm lòng là “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn” thì qua việc khảo dị của cụNguyễn Thế Anh đã cho biết có tới 5 dị bản thể hiện qua 5 bản Kiều. Ngay nhưbản Kiều A mà tác giả giới thiệu thì nguyên văn câu này là “Làn thu thuỷ, thấpxuân sơn”. Từ đã dị biệt như thế rồi mà chữ (chữ Nôm) thể hiện trong truyệnKiều cũng lắm rối rắm. Vẫn biết, chữ Nôm do người nước ta thời xưa chế tác vàsử dụng nhưng vẫn bị coi thường là “Nôm na mách qué” nên không đư ợc chuẩnhoá như chữ Hán, do đó khi viết rất tùy tiện. Có khi cùng một chữ thể hiện mộtâm cùng nghĩa, nhưng người Bắc viết khác người Trung, người Trung viết khácngười Nam và thế là mặc sức suy đoán “chữ tác thành chữ tộ, chữ ngộ thành chữquá”. Lại nữa, do trình độ thấp kém của thợ khắc chữ, để rồi “ngay trong một câumà có khi sai đến 2-3 chữ” - Nguyễn Thế Anh. Nói lên điều này để thấy công lao“Sinh ư nghệ, tử ư nghệ” của cụ Nguyễn Thế Anh trong quá trình “phục chế”bản Kiều đã bị mất 18 tờ gốc. Nếu không thật kỳ công trong việc cất nhắc khôngchỉ từng câu, từng chữ một thì khó mà cho ra mắt người đọc bản Kiều được chấpnhận như thế này. Cái sự “phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông” về chữ nghĩa Truyện Kiều củahọc giả Nguyễn Thế Anh thể hiện ở phần phụ lục cuối sách cũng “đường trường”lắm lắm. Chỉ một việc đắn đo giữa chữ “nghỉ” và chữ “nghĩ” trong câu “gia tưnghỉ (nghĩ) cũng thường thường bậc trung” mà tự dạng Nôm thể hiện giống nhauvốn gây tranh cãi chưa có hồi kết xưa nay, cũng thấy cách lý giải nghiêng về chữ“nghỉ” của cụ Thế Anh có tính thuyết phục hơn. Xung quanh chuyên mục chữnghĩa Truyện Kiều trong phần phụ lục này, tác giả không chỉ có bài viết rất cógiá trị mà còn tập hợp được nhiều bài của một số nhà “Kiều học” khác mang tínhhọc thuật cao lại bao hàm cả ý kiến phản biện nên càng hấp dẫn, lôi cuốn ngườiđọc. Phần phụ lục 2 gồm một số tranh ảnh tư liệu, đặc biệt là những bức tranh minhhoạ Truyện Kiều của nhiều tác giả thể hiện trên các bản Truyện Kiều xưa nayphải nói là hết sức sinh động càng làm phong phú thêm ấn phẩm Truyện Kiềunày./. Chú thích (1) Từ “phiên âm” trong trường hợp này, theo người viết bài này thì nên dùngtừ “chuyển tự” (chuyển từ dạng từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ) có lẽ chính xáchơn. Bởi chữ Nôm cũng thể hiện (ký âm) tiếng Việt như chữ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
lịch sử việt nam tỉnh nghệ an nhân vật lịch sử Danh thần xứ Nghệ văn hóa tỉnh nghệGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 147 0 0 -
69 trang 84 0 0
-
Quyết định số 71/2012/QĐ-UBND
3 trang 84 0 0 -
Quyết định số 73/2012/QĐ-UBND
8 trang 75 0 0 -
11 trang 69 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 61 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 60 0 0 -
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 56 0 0 -
11 trang 52 0 0
-
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 47 0 0