Hội chứng tôm chết sớm (EMS) không gây hại cho con người
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 193.78 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
“Hội chứng tôm chết sớm (EMS) không gây hại cho con người” Đây là khẳng định của Tiến sỹ Donald Lightner, nhà nghiên cứu bệnh học của Trường Đại học Arizona (Mỹ) và nhóm nghiên nghiên cứu của ông sau khi tìm ra được nguyên nhân gây Hội chứng tôm chết sớm (EMS) hay Hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (AHPNS).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hội chứng tôm chết sớm (EMS) không gây hại cho con ngườiHội chứng tôm chết sớm(EMS) không gây hại cho con người“Hội chứng tôm chết sớm (EMS) không gây hại cho con người” Đây là khẳngđịnh của Tiến sỹ Donald Lightner, nhà nghiên cứu bệnh học của Trường Đạihọc Arizona (Mỹ) và nhóm nghiên nghiên cứu của ông sau khi tìm ra đượcnguyên nhân gây Hội chứng tôm chết sớm (EMS) hay Hội chứng hoại tử gantụy cấp tính (AHPNS).1. Nỗi lo về EMS- EMS/AHPNS xuất hiện lần đầu tiên ở Trung Quốc năm 2009. Ban đầu hầuhết nông dân đều phớt lờ. Nhưng năm 2011, sự bùng phát bệnh trở nênnghiêm trọng, đặc biệt tại các trang trại có lịch sử nuôi hơn 5 năm và khu vựcgần biển sử dụng nguồn nước rất mặn. Nuôi tôm ở Hải Nam, Quảng Đông,Phúc Kiến và Quảng Tây bị thiệt hại hơn 80% trong nửa đầu năm 2011.- Ở Malaysia, bệnh EMS được báo cáo đầu tiên vào giữa năm 2010 ở cácbang bờ đông Pahang và Johor. Dịch bệnh EMS bùng phát dẫn đến sự sụtgiảm sản lượng tôm thẻ từ 70.000 tấn năm 2010 xuống chỉ còn 40.000 tấnnăm 2011.- Tại Việt Nam, bệnh được theo dõi từ năm 2010, nhưng sự tàn phá lan rộngnhất do bệnh EMS được báo cáo kể từ tháng 3/2011 ở khu vực ĐBSCL. EMStác động đến các khu vực sản xuất tôm chủ lực của khu vực này như: TiềnGiang, Bến Tre, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau với tổng diệntích thiệt hại khoảng 98.000 ha.- Còn tại Thái Lan, ngành nuôi tôm nước này cũng bắt đầu phải chịu đựngảnh hưởng của EMS từ năm 2012. Đến nay, hầu hết các trang trại trong vùngnuôi tôm rộng lớn ở miền đông Thái Lan đều bị thiệt hại do ảnh hưởng củaEMS. Trong cuối năm 2012 và đầu năm 2013, đỉnh điểm có đến 80 – 90%diện tích ao nuôi ở khu vực này phải ngừng sản xuất.2. Hội chứng tôm chết sớm không gây hại cho người- Nhóm nghiên cứu do Tiến Sỹ Donald Lighter dẫn đầu cho biết, thủ phạmgây ra EMS là do một chủng của loại vi khuẩn thường được tìm thấy trongvùng nước lợ ven biển trên toàn cầu, vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus.Nhóm nghiên cứu khẳng định, EMS/AHPNS không ảnh hưởng đến sức khỏecon người. Một số chủng hiếm hoi của V. parahaemolyticus là nguyên nhângây bệnh đường tiêu hóa ở người thông qua việc tiêu thụ tôm và hàu sốnghoặc chưa được nấu chín, nhưng chỉ có dòng mang hai gen chuyên biệt mớigây bệnh cho người. Tuy nhiên, chỉ có 1 – 2% của chủng V.parahaemolyticus hoang dã trên toàn thế giới có hai gen chuyên biệt này.- Lightner khẳng định: “Chủng V. parahaemolyticus mà chúng tôi tách biệtdường như không có các gen có đặc tính độc hại để lây nhiễm cho conngười”. “Không có bất kỳ báo cáo của bệnh nhân nào có liên quan đến EMS.Và những phát hiện mới này sẽ có xu hướng xác nhận rằng, tôm nhiễm EMSkhông gây hại đến sức khỏe người dân”, Iddya Karunasagar – chuyên gia vềan toàn hải sản tại FAO nhận định.3. Khẳng định tôm đông lạnh an toàn cho EMS- EMS ảnh hưởng đến 2 loài tôm nuôi phổ biến trên thế giới là tôm súPenaeus monodon và tôm thẻ chân trắng P. vannamei. Các dấu hiệu lâm sàngcủa bệnh bao gồm: hôn mê, tăng trưởng chậm, dạ dày trống rỗng, ruột giữa vàgan tụy xanh xao, co lại, có những vết hơi trắng và đen. Bệnh xuất hiện trongvòng 20 – 30 ngày sau khi thả giống, tỷ lệ chết có thể lên đến 100% ở các aobị nhiễm bệnh nặng.- Cho đến nay, đã có 4 quốc gia chính thức báo cáo EMS là Trung Quốc,Malaysia, Thái Lan và Việt Nam. Tuy nhiên, bất cứ nơi nào nuôi tôm sú vàtôm thẻ chân trắng đều có nguy cơ tiềm tàng EMS. Điều này bao gồm hầu hếtcác nước ở châu Á và phần lớn ở châu Mỹ La tinh, nơi nuôi tôm rất quantrọng, cũng như các nước châu Phi khác như: Madagascar, Ai Cập,Mozambique và Tanzania.- Hiện, có một số nước đã thực hiện chính sách hạn chế nhập khẩu tôm đônglạnh hoặc các sản phẩm tôm khác từ các nước bị ảnh hưởng nặng nề bởiEMS. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu của Donald Lightner khẳng định, các sảnphẩm tôm đông lạnh tương đối an toàn và chưa có cơ sở khoa học khẳng địnhchúng là nguồn lan truyền bệnh EMS bởi nhóm của ông cũng đã có nhiềunghiên cứu về mức độ lan truyền bệnh EMS bằng cách sử dụng mô tôm đônglạnh nhưng không thành công. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hội chứng tôm chết sớm (EMS) không gây hại cho con ngườiHội chứng tôm chết sớm(EMS) không gây hại cho con người“Hội chứng tôm chết sớm (EMS) không gây hại cho con người” Đây là khẳngđịnh của Tiến sỹ Donald Lightner, nhà nghiên cứu bệnh học của Trường Đạihọc Arizona (Mỹ) và nhóm nghiên nghiên cứu của ông sau khi tìm ra đượcnguyên nhân gây Hội chứng tôm chết sớm (EMS) hay Hội chứng hoại tử gantụy cấp tính (AHPNS).1. Nỗi lo về EMS- EMS/AHPNS xuất hiện lần đầu tiên ở Trung Quốc năm 2009. Ban đầu hầuhết nông dân đều phớt lờ. Nhưng năm 2011, sự bùng phát bệnh trở nênnghiêm trọng, đặc biệt tại các trang trại có lịch sử nuôi hơn 5 năm và khu vựcgần biển sử dụng nguồn nước rất mặn. Nuôi tôm ở Hải Nam, Quảng Đông,Phúc Kiến và Quảng Tây bị thiệt hại hơn 80% trong nửa đầu năm 2011.- Ở Malaysia, bệnh EMS được báo cáo đầu tiên vào giữa năm 2010 ở cácbang bờ đông Pahang và Johor. Dịch bệnh EMS bùng phát dẫn đến sự sụtgiảm sản lượng tôm thẻ từ 70.000 tấn năm 2010 xuống chỉ còn 40.000 tấnnăm 2011.- Tại Việt Nam, bệnh được theo dõi từ năm 2010, nhưng sự tàn phá lan rộngnhất do bệnh EMS được báo cáo kể từ tháng 3/2011 ở khu vực ĐBSCL. EMStác động đến các khu vực sản xuất tôm chủ lực của khu vực này như: TiềnGiang, Bến Tre, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau với tổng diệntích thiệt hại khoảng 98.000 ha.- Còn tại Thái Lan, ngành nuôi tôm nước này cũng bắt đầu phải chịu đựngảnh hưởng của EMS từ năm 2012. Đến nay, hầu hết các trang trại trong vùngnuôi tôm rộng lớn ở miền đông Thái Lan đều bị thiệt hại do ảnh hưởng củaEMS. Trong cuối năm 2012 và đầu năm 2013, đỉnh điểm có đến 80 – 90%diện tích ao nuôi ở khu vực này phải ngừng sản xuất.2. Hội chứng tôm chết sớm không gây hại cho người- Nhóm nghiên cứu do Tiến Sỹ Donald Lighter dẫn đầu cho biết, thủ phạmgây ra EMS là do một chủng của loại vi khuẩn thường được tìm thấy trongvùng nước lợ ven biển trên toàn cầu, vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus.Nhóm nghiên cứu khẳng định, EMS/AHPNS không ảnh hưởng đến sức khỏecon người. Một số chủng hiếm hoi của V. parahaemolyticus là nguyên nhângây bệnh đường tiêu hóa ở người thông qua việc tiêu thụ tôm và hàu sốnghoặc chưa được nấu chín, nhưng chỉ có dòng mang hai gen chuyên biệt mớigây bệnh cho người. Tuy nhiên, chỉ có 1 – 2% của chủng V.parahaemolyticus hoang dã trên toàn thế giới có hai gen chuyên biệt này.- Lightner khẳng định: “Chủng V. parahaemolyticus mà chúng tôi tách biệtdường như không có các gen có đặc tính độc hại để lây nhiễm cho conngười”. “Không có bất kỳ báo cáo của bệnh nhân nào có liên quan đến EMS.Và những phát hiện mới này sẽ có xu hướng xác nhận rằng, tôm nhiễm EMSkhông gây hại đến sức khỏe người dân”, Iddya Karunasagar – chuyên gia vềan toàn hải sản tại FAO nhận định.3. Khẳng định tôm đông lạnh an toàn cho EMS- EMS ảnh hưởng đến 2 loài tôm nuôi phổ biến trên thế giới là tôm súPenaeus monodon và tôm thẻ chân trắng P. vannamei. Các dấu hiệu lâm sàngcủa bệnh bao gồm: hôn mê, tăng trưởng chậm, dạ dày trống rỗng, ruột giữa vàgan tụy xanh xao, co lại, có những vết hơi trắng và đen. Bệnh xuất hiện trongvòng 20 – 30 ngày sau khi thả giống, tỷ lệ chết có thể lên đến 100% ở các aobị nhiễm bệnh nặng.- Cho đến nay, đã có 4 quốc gia chính thức báo cáo EMS là Trung Quốc,Malaysia, Thái Lan và Việt Nam. Tuy nhiên, bất cứ nơi nào nuôi tôm sú vàtôm thẻ chân trắng đều có nguy cơ tiềm tàng EMS. Điều này bao gồm hầu hếtcác nước ở châu Á và phần lớn ở châu Mỹ La tinh, nơi nuôi tôm rất quantrọng, cũng như các nước châu Phi khác như: Madagascar, Ai Cập,Mozambique và Tanzania.- Hiện, có một số nước đã thực hiện chính sách hạn chế nhập khẩu tôm đônglạnh hoặc các sản phẩm tôm khác từ các nước bị ảnh hưởng nặng nề bởiEMS. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu của Donald Lightner khẳng định, các sảnphẩm tôm đông lạnh tương đối an toàn và chưa có cơ sở khoa học khẳng địnhchúng là nguồn lan truyền bệnh EMS bởi nhóm của ông cũng đã có nhiềunghiên cứu về mức độ lan truyền bệnh EMS bằng cách sử dụng mô tôm đônglạnh nhưng không thành công. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
EMS là gì tìm hiểu về EMS kỹ thuật chăn nuôi cơ giới hóa nông nghiệp phương pháp chăn nuôi kỹ thuật trồng trọtGợi ý tài liệu liên quan:
-
Một số đặc điểm ngoại hình và sinh lý sinh dục của chuột lang nuôi làm động vật thí nghiệm
5 trang 125 0 0 -
5 trang 122 0 0
-
Giáo trình Máy và thiết bị nông nghiệp: Tập I (Máy nông nghiệp) - Trần Đức Dũng (chủ biên)
195 trang 82 0 0 -
Giáo trình chăn nuôi gia cầm - Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên
230 trang 70 1 0 -
Bài giảng Chăn nuôi trâu bò - Chương 4: Chăn nuôi trâu bò cái sinh sản
12 trang 66 0 0 -
Đặc Điểm Sinh Học Của Sò Huyết
5 trang 65 0 0 -
Giáo trình Chăn nuôi trâu bò (ĐH Nông nghiệp I HN) - Tài liệu tham khảo
3 trang 57 1 0 -
NGHỀ CHĂN NUÔI NGAN AN TOÀN SINH HỌC
28 trang 55 0 0 -
Chăm sóc thỏ mẹ và thỏ mới sinh
3 trang 48 0 0 -
Báo cáo thực tập tổng quan về cây rau cải xanh
9 trang 47 0 0