Danh mục

IPM hiệu quả trên lúa tại đồng bằng sông Cửu Long

Số trang: 193      Loại file: pdf      Dung lượng: 23.32 MB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Việc áp dụng IPM trong những năm 1985 đến 1990 giúp giảm lạm dụng thuốc BVTV và kiểm soát được bùng phát dịch rầy nâu tại nhiều nước. Mộtphần của vấn đề là trong những năm qua, huấn luyện IPM không thống nhất, và nông dân nhận được tư vấn nhau từ các bên khác nhau. Mục đích của dự án là xây dựng một chương trình, trong đó thông điệp chính là sử dụng thuốc BVTVcó trách nhiệm. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
IPM hiệu quả trên lúa tại đồng bằng sông Cửu LongIPMhiệ uquả trê nlú atạ iđongbangsô ngCưuLong̉Giới thiệu: IPM cho lúa trên thực tế.Lúa gạo là cây trồng quan trọng nhất, không chỉ tại Việt Nam, nhưng trong hầu hết các nước châu Á;với dân số đang tăng trưởng trong khu vực, việc bảo vệ và duy trì sản xuất lúa gạo bền vững là vấnđề quan trọng của toàn cầu. Cây lúa bị tác động bởi nhiều loại dịch hại (côn trùng, bệnh, cỏ, chuột…),các nhà khoa học đều thống nhất phòng trừ dịch hại tổng hợp (IPM) là cách tiếp cận phù hợp nhấtđể giảm thất thoát năng suất. Tổ chức Lương Nông thế giới (FAO), trong Quy tắc ứng xử quốc tế vềphân phối và sử dụng thuốc trừ dịch hại (2014) định nghĩa IPM là “cân nhắc một cách cẩn thận tất cảcác kỹ thuật phòng trừ dịch hại sẵn có, và phối hợp các biện pháp phù hợp để giảm mật độ dịch hại,và chỉ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) khi quần thể dịch hại tới ngưỡng kinh tế nhằm giảmthiểu nguy cơ đến sức khỏe của người, động vật và môi trường. “IPM” nhấn mạnh trồng cây khỏe,ảnh hưởng tối thiểu tới hệ sinh thái nông nghiệp và khuyến khích cơ chế kiểm soát dịch hại tựnhiên”. Theo nghĩa khác, “IPM” kết hợp phòng trừ dịch hại với tất cả các khía cạnh của sản xuất câytrồng và nhận biết các mức độ rủi ro khác nhau: kinh tế trang trại, môi trường, sức khỏe, dịch hại,và khả năng quản lý chúng trong trung - dài hạn. Quy tắc ứng xử cũng chỉ định trách nhiệm của cáccấp gồm: Chính phủ, các tổ chức quốc tế, nhà sản xuất thuốc BVTV, nhà sản xuất dụng cụ phun rải,người kinh doanh thuốc BVTV, người phun thuốc, hay các thành phần có quan tâm tới thuốc “BVTV”.Việc áp dụng IPM trong những năm 1985 đến 1990 giúp giảm lạm dụng thuốc BVTV và kiểm soátđược bùng phát dịch rầy nâu tại nhiều nước. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, có nhiều đợtbùng phát nghiêm trọng rầy nâu và rầy lưng trắng tại một số nước, trong đó có Việt Nam, nước cóbáo cáo thiệt hại lên tới 1 triệu tấn trong năm 2006/2007. Nguyên nhân bùng phát do canh táckhông phù hợp, bao gồm gieo sạ không đồng loạt, dùng giống nhiễm và lạm dụng thuốc BVTV. Mộtphần của vấn đề là trong những năm qua, huấn luyện IPM không thống nhất, và nông dân nhậnđược tư vấn nhau từ các bên khác nhau.Thực tế trên đồng: Sai chỗ nào?Thực tế thuốc BVTV vẫn bị lạm dụng và dùng quá nhiều: do đó cần tối ưu hóa phun thuốc và bỏnhững lần phun không cần thiết. Việc triển khai các khuyến cáo sử dụng thuốc BVTV và quy định củaViệt Nam cần kết hợp với nỗ lực của các công ty thuốc BVTV, cửa hàng thuốc BVTV và những ai kinh1doanh trong mảng BVTV; bỏ qua vai trò của họ gây ra nguy cơ lớn cho sản xuất lúa gạo. Các công tyhóa nông và đại lý của họ cần hiểu mối nguy từ “bi kịch của sự trùng lặp”: trong đó, yếu tố được khaithác trùng lặp là khả năng kiểm soát các dịch hại bằng thuốc BVTV. Các bên liên quan trong bảo vệthực vật, bao gồm cả nông dân và các bên trong chuỗi cung ứng thuốc, đều có lợi ích chung trongviệc duy trì tính bền vững của các phương pháp hiệu quả để quản lý dịch hại: bao gồm sử dụng thuốcBVTV có trách nhiệm.Đạo ôn có lẽ là bệnh hại quan trọngnhất tại Việt Nam. Đạo ôn có thểđược kiểm soát bằng cách kết hợpgiống kháng, biện pháp canh tác vàphun thuốc trừ bệnh.Tuy nhiên, việc lạm dụng thuốc tạonguy cơ cao cho sản xuất lúa, vì đạoôn có lịch sử kháng nhiều loại thuốc.Thực hiện chiến lược quản lý khángthuốc, như một phần của sử dụngthuốc BVTV có trách nhiệm, là thiếtyếu để duy trì tính bền vững của sảnxuất lúa.Mục đích của dự án là xây dựng một chương trình, trong đó thông điệp chính là sử dụng thuốc BVTVcó trách nhiệm, được tăng cường bởi chuyên gia của cục BVTV tại cấp tỉnh và cấp huyện, tổ chứckhuyến nông và hội nông dân, cùng với các cửa hàng thuốc BVTV, và sử dụng kinh nghiệm quản lý từCropLife International và GIZ. Theo bộ NN&PTNT, có khoảng 22.000 cửa hàng thuốc BVTV trên cảnước, nhưng chỉ 80% có giấy phép và có “sai phạm trong quảng cáo và dán nhãn thuốc BVTV, trongkhi nông dân vẫn bỏ qua hướng dẫn sử dụng thuốc”. Cải thiện chỉ đạt được thông qua huấn luyện,đào tạo tất cả các bên liên quan, và dự án này đi tiên phong trong nỗ lực trên: bao gồm tăng cườngkiến thức cho các cửa hàng thuốc BVTV, bên cạnh việc huấn luyện nông dân.Khảo sát tại Đồng Tháp và tài liệu huấn luyện cho đồng bằng sông Cửu Long.Năm 2015, một cuộc khảo sát nông dân và cửa hàng thuốc BVTV được thực hiện tại 5 huyện trồnglúa thuộc tỉnh Đồng Tháp. Các kết luận chính thấy rằng:1. Chỉ một phần nhỏ nông dân áp dụng IPM (84% báo cáo họ không áp dụng), mặc dù đã qua cáclớp IPM từ những năm 1990, và hầu hết nông dân phun thuốc khi không cần thiết. Nông dânthường phun từ 7-10 lần/vụ, thường phun ngừa bệnh, hoặc khi phát hiện sâu hại.2. Nhìn chung, mức độ hiểu biết về thuốc BVTV thấp, với nông dân, người phun thuốc, cửa hàngthuốc BVTV và các trường cao đẳng nông nghiệp: đây là chủ đề bị bỏ qua trong chương trìnhIPM trước đây.3. Phun thuốc BVTV: cách phun thuốc BVTV hiện tại của ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: