Danh mục

Kế sách giữ nước thời Lý-Trần_24

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 139.74 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

CHƯƠNG VI.CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI KHÔN KHÉO NHẰM NGĂN NGỪA CHIẾN TRANH, GIỮ YÊN BIÊN THÙY, KIẾN TẠO HÒA BÌNH, XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC.Liền sau khi giặc rút quân, vua Lý Nhân Tông cử Lý Kế Nguyên đến biên giới bàn việc dâng biểu đòi lại đất.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kế sách giữ nước thời Lý-Trần_24 Kế sách giữ nước thời Lý-Trần CHƯƠNG VI.CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI KHÔN KHÉO NHẰMNGĂN NGỪA CHIẾN TRANH, GIỮ YÊN BIÊNTHÙY, KIẾN TẠO HÒA BÌNH, XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC. Liền sau khi giặc rút quân, vua Lý Nhân Tông cử Lý Kế Nguyênđến biên giới bàn việc dâng biểu đòi lại đất. Trong biểu có phạm húynhà Tống, Triệu Tiết lúc này vẫn lưu giữ Quế Châu và sung chức Anphủ sứ Quảng Tây không nhận, đề nghị chữa lại và tâu về triều vớigợi ý: “Người Giao sai tụi Lý Kế Nguyên tới biên giới cùng với quân tabàn việc. Tôi muốn bảo quân ta lấy ấn tín triều đình mà hiểu dụ CànĐức, ra lệnh cho y trả lại những nhân khẩu đã cướp, rồi triều đình sẽcấp đất cho”1. Vua Tống bằng lòng.Đầu năm 1078, Vua Lý “sai Đào Tông Nguyên đem biếu nhà Tốngnăm con voi và xin trả lại các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu, và nhữngngười các châu ấy bị bắt”2.Để đổi lại. vua Tống đòi tha số người bị bắt giữ trước đây. Năm 1079vua Lý trả cho nhà Tống 221 người về nước bằng đường biển3. NhàTống trả lại đất Thuận Châu (tức là đất Quảng Nguyên)4.Để tiếp tục giành lại các vùng đất chưa đòi được, nhà Lý một mặt, cửsứ giả sang nhà Tống năm 1082 cống hai con voi, 100 chiếc sừng tê,ngà voi để xin đất5, mặt khác, năm 1083 lại cho quân tập trung dọcbiên thùy gần châu Quy Hóa mà Tống sử chép “lấy cớ đi tầm nã NùngTrí Cao”6. Năm 1084, vua Lý sai thị lang bộ binh Lê Văn Thịnh - ngườiđỗ đầu khoa minh kinh bác học đầu tiên vào năm 1075 - tới trại VĩnhBình (Quảng Tây) cùng với Tả giang tuần kiểm ty nhà Tống là ThànhTrạc hội bàn về việc cương giới7. Phái viên của nhà Tống chỉ trả lạiđất đã chiếm giữ trong cuộc hành binh năm 1077. Những đất do tùtrưởng dâng nộp từ trước không thuộc diện bàn trả. Lê Văn Thịnh đãbiện luận: “Đất thì có chủ. Các viên coi giữ đất mang nộp và trốn đithì đất ấy trở thành vật của chủ. Sự chủ giao cho mà tự lấy trộm đãkhông tha thứ được, mà trộm của hay tàng trữ thì pháp luật cũngkhông cho phép. Huống chi nay chúng lại mang đất trộm dâng để làmnhơ bẩn sử sách của nhà vua”8. Lê Văn Thịnh còn tỏ thái độ khiêmnhường, ông nói: “Kẻ bồi thần này không dám tranh giành”9. Tinhthần đó của phái bộ Đại Việt còn toát lên trong thư Văn Thịnh gửi choHùng Bản, một nho thần xuất thân tiến sĩ, coi giữ Quế Châu như sau:“Thành Trạc đã nói sẽ vạch địa giới ở phía nam 18 xứ sau này:Thương Điện, Hạ Lôi, Ôn Nhuận, Anh, Dao, Vật Dương, Vật Ác, KếThành, Cống, Lục, Tần, Nhân, Động, Cảnh, Tư, Kỳ, Kỷ, Huyện và nóinhững xứ ấy đất thuộc Trung Quốc. Bồi thần tiểu tử này chỉ biết nghemệnh, không dám cãi lại. Nhưng những đất ấy, mà họ Nùng đã nộpđều thuộc Quảng Nguyên. Nay may gặp thánh triều ban bố hàng vạnchính lệnh khoan hồng, sao lại chuộng những miếng đất đấy sỏi đá,lam chướng này mà không cho lại nước tôi, để giúp kẻ ngoại thần”10.Qua thương nghị ở Vĩnh Bình, nhà Tống trả lại cho Đại Việt “6 huyện 3động”11. Đời Lý Nhân Tông đã nhiều lần đòi đất Vật Dương, Vật Ácnhưng nhà Tống không nghe12.Như vậy, trong buổi đầu phục hưng, nước Đại Việt đã phải đương đầuvới đội quân xâm lược của nhà Tống. Nhà nước thời Lý đã kết hợp cảquân sự và ngoại giao để sớm chấm dứt chiến tranh, kiến tạo hòabình. Tiếp theo sức mạnh vũ khí ở chiến trường là hoạt động đối ngoạilinh hoạt, mềm dẻo để bảo toàn lãnh thổ biên cương. Tuy nhiên, vẫncòn phần đất mà các thổ tù đã nộp cho nhà Tống từ trước không đòilại được.Nhà Trần thay nhà Lý cầm quyền từ năm 1225. Với ngót hai thế kỷhòa bình xây dựng (từ năm 1077 đến năm 1258), quốc gia Đại Việtđã đủ sức đánh tan ba cuộc xâm lược Nguyên Mông xảy ra trong vòng30 năm trời (từ 1258 đến 1288). Lúc này, cho dù quân Nguyên Môngcó mạnh nhưng thế và lực của Đại Việt đã vững vàng, do đó, khôngchỉ đuổi được giặc mà còn giữ vững được biên cương.Sử có cho biết vào năm 1345 đời Trần Dụ Tông, nhà Nguyên đã sai sứgiả Vương Sĩ Thành sang hỏi về cột đồng. Vua Trần sai Phạm Sư Mạnhđi biện bạch rồi cũng yên chuyện13. Chắc hẳn nhà nước thời Trầnkhông quên việc tương tự đã xảy ra hơn 70 năm trước (năm 1272):Hốt Tất Liệt sai người sang hỏi về cột đồng Mã Viện, vua Trần NhânTông sai viên ngoại lang Lê Kính Phu đi hội khám, trả lời: “dựng lâunăm đã bị mai một, không còn tung tích gì nữa”14. Bấy giờ nhàNguyên còn đang ở thế mạnh, giờ đây nhà Nguyên đã bước vào giaiđoạn suy yếu, do đó, biên cương của Đại Việt cũng yên ổn.***Hoạt động đối ngoại của bất cứ một nhà nước nào, xét cho cùng đềuthông qua mối quan hệ với các quốc gia hữu quan nhằm thực hiện cóhiệu quả công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước của mình. Để thựcthi hoạt động đối ngoại có hiệu lực, trước hết tùy thuộc vào sự sángsuốt của nhà nước. Đó là “biết mình, biết người” là nhận thức đúngđắn các mối tương quan lực lượng, xác định lợi ích trước mắt và lợi íchlâu dài của dân tộc để đề ra được đường lối, chính sách đối ngoạiđúng đắn đối với từng đối tượng trong từng trường hợp và hoàn cảnhlịch sử cụ thể. Chính sách đó được thể hiện thông qua biện pháp cụthể với những hình thức linh hoạt, phong phú và đa dạng.Từ thế kỷ XI, nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho các nhà nước thời Lý - Trầnđã khá rõ ràng. Đó là giữ vững nền độc lập dân tộc, khôi phục, xâydựng đất nước, tạo thế đứng cho quốc gia phát triển thịnh vượng.Vào các thế kỷ XI - XIV khu vực Động Nam Á lục địa đã trải qua nhiềubiến động trước làn sóng thiên di của người Thái tràn về phía nam,trước sự tranh giành, phân chia lãnh thổ giữa các bộ tộc, các quốc giađã và đang trên con đường xác lập. Trong bối cảnh đó, có quốc giahưng thịnh, oanh liệt một thời để nhanh chóng rơi vào cảnh suy tànnhư Chân Lạp - đế quốc Ăng Co, hoặc trải qua nhiều sóng gió để điđến lập nước như Lạng Xạng (Lào), Sukhôthai (Thái) hoặc bị thôntính, sáp nhập hoàn toàn như Đại Lý ... Trong khi đó quốc gia Đại Việtcó lịch sử dựng nước lâu đời, từng trải qua thăng trầm, đang bước vàothời ky phục hưng trong thế bị kẹp vào giữa hai quốc gia mạnh yếu.rộng hẹp khác nhau, nhưng đều có lịch sử ...

Tài liệu được xem nhiều: