![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Kế sách giữ nước thời Lý-Trần_40
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 143.24 KB
Lượt xem: 2
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
CHƯƠNG VKHOAN THƯ SỨC DÂN - THƯỢNG SÁCH GIỮ NƯỚCDựa vào dân, động viên toàn dân tham gia đánh giặc giữ nước là một ưu điểm nổi bật của các vương triều Lý và Trần.Trong điều kiện phải thường xuyên đối phó với các thế lực ngoại xâm lớn mạnh hơn bội phần, tồ tiên ta không chỉ dựa vào sức mạnh của nhà nước, của quân đội mà phải dựa vào sức mạnh tổng hợp của cả nước. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kế sách giữ nước thời Lý-Trần_40 Kế sách giữ nước thời Lý-Trần CHƯƠNG VKHOAN THƯ SỨC DÂN - THƯỢNG SÁCH GIỮ NƯỚCDựa vào dân, động viên toàn dân tham gia đánh giặc giữ nước là mộtưu điểm nổi bật của các vương triều Lý và Trần.Trong điều kiện phải thường xuyên đối phó với các thế lực ngoại xâmlớn mạnh hơn bội phần, tồ tiên ta không chỉ dựa vào sức mạnh củanhà nước, của quân đội mà phải dựa vào sức mạnh tổng hợp của cảnước. Vậy làm sao để động viên được đông đảo nhân dân tham giaxây dựng và bảo vệ đất nước, làm sao thực hiện được “toàn dân vibinh”, “cử quốc nghênh địch”? Bí quyết thành công của triều đại Lý -Trần là “dựa vào dân” và chính sách “khoan thư sức dân làm kế sâurễ bền gốc”.“Khoan thư sức dân” đã trở thành một quốc sách, một kế sách giữnước quan trọng của nhà nước Đại Việt.I. QUAN ĐIỂM VỀ DÂN THỜI LÝ - TRẦNTrong lịch sử, dù ở thời kỳ nào, triều đại nào, dù đối với một thể chếchính trị nào, vai trò của nhân dân vẫn là quyết định. Vì vậy, giai cấpthống trị bao giờ cũng tìm mọi cách khai thác nguồn sức mạnh này đểphục vụ quyền lợi của mình.Các nhà tư tưởng phong kiến đã sớm nêu lên những quan điểm vềdân trong các tác phẩm kinh điển của họ. Khổng Tử nói: “Dân vi bangbản” (dân là gốc của nước). Mạnh Tử cho rằng: “Dân vi quý, xã tắcthứ chi, quân vi khinh”, (dân là quý, thứ đến là quốc gia, còn vua thìxem nhẹ). Lý tưởng “thân dân” được coi như một nguyên lý tiến bộcủa Nho giáo khởi thủy. Trong thiên “Thái tuệ” của sách Kinh thư cócâu: “dân chi sở dục, thiên tất tòng chi” (cái mà dân muốn tức trờimuốn), hoặc trong sách Đại học: “Tại minh minh đức, thân dân, chi ưchí thiện” (điều chí thiện là ở chỗ đức sáng, thân dân), v.v…Ở nước ta, tư tưởng “dân”, “dựa vào dân” đã từng có trong lịch sử lâuđời, nó xuất phát từ truyền thống gắn bó giữa thủ lĩnh và quần chúng,từ nền móng của những quan hệ cộng đồng công xã xa xưa. Đến thờiLý - Trần, quan điểm thân dân của các vua và giới quý tộc được pháttriển bởi sự kết hợp giữa truyền thống lịch sử đó với tinh thần từ bi,bác ái, nhân từ của Phật giáo và tư tưởng “dân” tiến bộ của Nho giáo.Những đại biểu về tư tưởng của các tập đoàn phong kiến đương quyềnở nước ta thời Lý - Trần thường coi “ý dân”, “lòng dân”, việc “khoanthư sức dân” là điều đáng quan tâm bậc nhất trong sự nghiệp chínhtrị. Đối với họ, “lòng dân” cùng với “ý trời” là cơ sở đề thiết lập vươngquyền; hoặc là căn cứ của những chính sách lớn, những hoạt độngchính trị của triều đình như việc dời đô; kế vị ngôi báu, phát độngchiến tranh, v.v..Trong xã hội phong kiến nói chung và thời Lý - Trần nói riêng, sự thayđổi một triều đại hay sự thay đổi ngôi vua thường được giải thích theoý nghĩa đó.Sự kiện Lý Công Uẩn lên ngôi thiên tử thay thế vị trí của Ngọa triềuhoàng đế được coi là “thuận lẽ trời, hợp lòng dân”. Đào Cam Mộc, mộtđại thần trong triều đã nói với Công Uẩn rằng: “Thân vệ sao chẳngnhân lúc này, theo dấu Thang Võ ngày xưa, noi gương Dương Lê mớirồi, trên thuận lòng trời, dưới thuận dân mong mà cứ khư khư giữ cáitiểu tiết hay sao?”. Nay trăm họ mỏi mệt, dân không chịu nổi mệnhlệnh. Nếu Thân vệ lấy ân đức mà vỗ về, tất trăm họ sẽ vui vẻ mànghe theo, cũng như nước chảy chỗ trũng, ai mà ngăn chặn được”1.Sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ) trong “Chiếu dời đô”đã khẳng định: “Trên vâng mệnh trời dưới theo ý dân, thấy tiện lợi thìđổi dời vận nước lâu dài phong tục giàu thịnh2. Những cuộc hànhquân chinh phạt, những cuộc thanh trừng nội bộ thường được các nhàvua hoặc giới quý tộc lấy nguyên nhân “lòng dân” làm chỗ dựa. Chẳnghạn, cuối thời Lý, Trần Tự Khánh đã tiến hành một đợt thanh trừnglớn để chuẩn bị lực lượng cho thế lực họ Trần đã nói với vua Lý HuệTông rằng: “Thần thấy bọn tiểu nhân ở bên cạnh bệ hạ lấn át ngườitrung lương, bưng tai bịt mắt bệ hạ; dân tình uất ức không thấu đượclên trên, cho nên nhân lòng giận dữ của người trong nước, thần khởibinh dẹp lũ đó, cắt trừ gốc họa để yên lòng dân mà thôi”3. Như vậyyếu tố “dân” đã được các thế lực chính tựi lợi dụng.Đối với nhà vua “ý trời lòng dân” trở thành lý do, định vị, tuy nhiênmột khi đã lên ngôi thì quyền lực của nhà vua là toàn năng và tốithượng, vua lại được coi là “Thiên tử” (con trời) “thế thiên hành đạo”(thay trời cai trị) và là cha mẹ của muôn dân. Lý Thái Tông thì yêudân như con; Lý Thánh Tông đã từng nói: “Ta yêu con ta như lòng talàm cha mẹ dân”. Vua Trần Anh Tông có lần khẳng định: “Trẫm là chamẹ dân, nếu thấy dân lầm than thì phải cứu giúp ngay, há nên so đokhó dễ lợi hại”4. Trong “Lộ bố văn”, Lý Thường Kiệt khẳng định: “Trờisinh ra dân chúng, vua hiền ắt hòa mục. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôidân”5. Như vậy, với quan niệm lúc đó, vua tuy là tối thượng nhưng lạicó quan hệ và trách nhiệm của mình đối với dân chúng. Có khi nhàvua coi đó là một tiêu chuẩn chính trị để tự răn mình. Năm 1207, LýCao Tông đã hạ chiếu rằng: “Trẫm còn bé mà phải gánh vác việc lớn,ở tận nơi cửu trùng, không biết cảnh khó khăn của dân chúng, nghelời bọn tiểu nhân mà gây oán với kẻ dưới. Dân dã oán thì trẫm cònbiết dựa vào ai; nay trẫm sẽ sửa lỗi cùng dân đổi mới”6. Các nhà vuathường tự coi mình là trung tâm cố kết của cộng đồng quốc gia, dântộc, là người che chở trực tiếp của muôn dân. Điều đó đã trở thành lýthuyết của các bậc vua quan phong kiến.Trên thực tế. sự tham gia của nhân dân vào sự nghiệp dựng nước vàgiữ nước càng khẳng định lòng tin của giới quý tộc về vai trò quyếtđịnh của dân chúng. Nhân dân được coi là cơ sở để tiến hành các cuộcchiến tranh giữ nước. Chính vì lẽ đó mà Trần Quốc Tuấn đã đề nghịvua Trần Nhân Tông nên thực hiện “chúng chí thành thành”, xây bứcthành kiên cố bằng ý chí của nhân dân, và ông đã tổng kết kinhnghiệm của các cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc, rằng: “ ... Đếnđời Đinh - Lê dùng được người hiền lương đất phương Nam mới mạnhmà phương Bắc thì mệt mỏi sung yếu, trên dưới cùng lòng, lòng dânkhông chia, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống đ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kế sách giữ nước thời Lý-Trần_40 Kế sách giữ nước thời Lý-Trần CHƯƠNG VKHOAN THƯ SỨC DÂN - THƯỢNG SÁCH GIỮ NƯỚCDựa vào dân, động viên toàn dân tham gia đánh giặc giữ nước là mộtưu điểm nổi bật của các vương triều Lý và Trần.Trong điều kiện phải thường xuyên đối phó với các thế lực ngoại xâmlớn mạnh hơn bội phần, tồ tiên ta không chỉ dựa vào sức mạnh củanhà nước, của quân đội mà phải dựa vào sức mạnh tổng hợp của cảnước. Vậy làm sao để động viên được đông đảo nhân dân tham giaxây dựng và bảo vệ đất nước, làm sao thực hiện được “toàn dân vibinh”, “cử quốc nghênh địch”? Bí quyết thành công của triều đại Lý -Trần là “dựa vào dân” và chính sách “khoan thư sức dân làm kế sâurễ bền gốc”.“Khoan thư sức dân” đã trở thành một quốc sách, một kế sách giữnước quan trọng của nhà nước Đại Việt.I. QUAN ĐIỂM VỀ DÂN THỜI LÝ - TRẦNTrong lịch sử, dù ở thời kỳ nào, triều đại nào, dù đối với một thể chếchính trị nào, vai trò của nhân dân vẫn là quyết định. Vì vậy, giai cấpthống trị bao giờ cũng tìm mọi cách khai thác nguồn sức mạnh này đểphục vụ quyền lợi của mình.Các nhà tư tưởng phong kiến đã sớm nêu lên những quan điểm vềdân trong các tác phẩm kinh điển của họ. Khổng Tử nói: “Dân vi bangbản” (dân là gốc của nước). Mạnh Tử cho rằng: “Dân vi quý, xã tắcthứ chi, quân vi khinh”, (dân là quý, thứ đến là quốc gia, còn vua thìxem nhẹ). Lý tưởng “thân dân” được coi như một nguyên lý tiến bộcủa Nho giáo khởi thủy. Trong thiên “Thái tuệ” của sách Kinh thư cócâu: “dân chi sở dục, thiên tất tòng chi” (cái mà dân muốn tức trờimuốn), hoặc trong sách Đại học: “Tại minh minh đức, thân dân, chi ưchí thiện” (điều chí thiện là ở chỗ đức sáng, thân dân), v.v…Ở nước ta, tư tưởng “dân”, “dựa vào dân” đã từng có trong lịch sử lâuđời, nó xuất phát từ truyền thống gắn bó giữa thủ lĩnh và quần chúng,từ nền móng của những quan hệ cộng đồng công xã xa xưa. Đến thờiLý - Trần, quan điểm thân dân của các vua và giới quý tộc được pháttriển bởi sự kết hợp giữa truyền thống lịch sử đó với tinh thần từ bi,bác ái, nhân từ của Phật giáo và tư tưởng “dân” tiến bộ của Nho giáo.Những đại biểu về tư tưởng của các tập đoàn phong kiến đương quyềnở nước ta thời Lý - Trần thường coi “ý dân”, “lòng dân”, việc “khoanthư sức dân” là điều đáng quan tâm bậc nhất trong sự nghiệp chínhtrị. Đối với họ, “lòng dân” cùng với “ý trời” là cơ sở đề thiết lập vươngquyền; hoặc là căn cứ của những chính sách lớn, những hoạt độngchính trị của triều đình như việc dời đô; kế vị ngôi báu, phát độngchiến tranh, v.v..Trong xã hội phong kiến nói chung và thời Lý - Trần nói riêng, sự thayđổi một triều đại hay sự thay đổi ngôi vua thường được giải thích theoý nghĩa đó.Sự kiện Lý Công Uẩn lên ngôi thiên tử thay thế vị trí của Ngọa triềuhoàng đế được coi là “thuận lẽ trời, hợp lòng dân”. Đào Cam Mộc, mộtđại thần trong triều đã nói với Công Uẩn rằng: “Thân vệ sao chẳngnhân lúc này, theo dấu Thang Võ ngày xưa, noi gương Dương Lê mớirồi, trên thuận lòng trời, dưới thuận dân mong mà cứ khư khư giữ cáitiểu tiết hay sao?”. Nay trăm họ mỏi mệt, dân không chịu nổi mệnhlệnh. Nếu Thân vệ lấy ân đức mà vỗ về, tất trăm họ sẽ vui vẻ mànghe theo, cũng như nước chảy chỗ trũng, ai mà ngăn chặn được”1.Sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ) trong “Chiếu dời đô”đã khẳng định: “Trên vâng mệnh trời dưới theo ý dân, thấy tiện lợi thìđổi dời vận nước lâu dài phong tục giàu thịnh2. Những cuộc hànhquân chinh phạt, những cuộc thanh trừng nội bộ thường được các nhàvua hoặc giới quý tộc lấy nguyên nhân “lòng dân” làm chỗ dựa. Chẳnghạn, cuối thời Lý, Trần Tự Khánh đã tiến hành một đợt thanh trừnglớn để chuẩn bị lực lượng cho thế lực họ Trần đã nói với vua Lý HuệTông rằng: “Thần thấy bọn tiểu nhân ở bên cạnh bệ hạ lấn át ngườitrung lương, bưng tai bịt mắt bệ hạ; dân tình uất ức không thấu đượclên trên, cho nên nhân lòng giận dữ của người trong nước, thần khởibinh dẹp lũ đó, cắt trừ gốc họa để yên lòng dân mà thôi”3. Như vậyyếu tố “dân” đã được các thế lực chính tựi lợi dụng.Đối với nhà vua “ý trời lòng dân” trở thành lý do, định vị, tuy nhiênmột khi đã lên ngôi thì quyền lực của nhà vua là toàn năng và tốithượng, vua lại được coi là “Thiên tử” (con trời) “thế thiên hành đạo”(thay trời cai trị) và là cha mẹ của muôn dân. Lý Thái Tông thì yêudân như con; Lý Thánh Tông đã từng nói: “Ta yêu con ta như lòng talàm cha mẹ dân”. Vua Trần Anh Tông có lần khẳng định: “Trẫm là chamẹ dân, nếu thấy dân lầm than thì phải cứu giúp ngay, há nên so đokhó dễ lợi hại”4. Trong “Lộ bố văn”, Lý Thường Kiệt khẳng định: “Trờisinh ra dân chúng, vua hiền ắt hòa mục. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôidân”5. Như vậy, với quan niệm lúc đó, vua tuy là tối thượng nhưng lạicó quan hệ và trách nhiệm của mình đối với dân chúng. Có khi nhàvua coi đó là một tiêu chuẩn chính trị để tự răn mình. Năm 1207, LýCao Tông đã hạ chiếu rằng: “Trẫm còn bé mà phải gánh vác việc lớn,ở tận nơi cửu trùng, không biết cảnh khó khăn của dân chúng, nghelời bọn tiểu nhân mà gây oán với kẻ dưới. Dân dã oán thì trẫm cònbiết dựa vào ai; nay trẫm sẽ sửa lỗi cùng dân đổi mới”6. Các nhà vuathường tự coi mình là trung tâm cố kết của cộng đồng quốc gia, dântộc, là người che chở trực tiếp của muôn dân. Điều đó đã trở thành lýthuyết của các bậc vua quan phong kiến.Trên thực tế. sự tham gia của nhân dân vào sự nghiệp dựng nước vàgiữ nước càng khẳng định lòng tin của giới quý tộc về vai trò quyếtđịnh của dân chúng. Nhân dân được coi là cơ sở để tiến hành các cuộcchiến tranh giữ nước. Chính vì lẽ đó mà Trần Quốc Tuấn đã đề nghịvua Trần Nhân Tông nên thực hiện “chúng chí thành thành”, xây bứcthành kiên cố bằng ý chí của nhân dân, và ông đã tổng kết kinhnghiệm của các cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc, rằng: “ ... Đếnđời Đinh - Lê dùng được người hiền lương đất phương Nam mới mạnhmà phương Bắc thì mệt mỏi sung yếu, trên dưới cùng lòng, lòng dânkhông chia, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống đ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
giáo án lịch sử bài giảng lịch sử lịch sử THPT lịch sử Việt Nam tài liệu lịch sửTài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử 8 (Trọn bộ cả năm)
272 trang 220 0 0 -
Giáo án Lịch sử 6 sách Chân trời sáng tạo (Trọn bộ cả năm)
173 trang 158 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 153 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 12: Lịch sử địa phương Quảng Nam
11 trang 106 0 0 -
Lịch sử văn minh thế giới: Thành tựu văn minh Ả Rập
27 trang 99 1 0 -
69 trang 94 0 0
-
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 62 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 62 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 61 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 10: Lịch sử địa phương Quảng Nam
10 trang 56 0 0