Mục tiêu của bài viết nhằm đánh giá kết quả điều trị và chăm sóc sau ghép ở bệnh nhân ghép phổi từ người cho sống. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng sau ghép phổi 12 tháng, bệnh nhân hồi phục nhanh về chức năng hô hấp, dinh dưỡng, không có biến chứng thải ghép và nhiễm trùng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kết quả điều trị và chăm sóc bệnh nhân sau ghép phổi từ người cho sống đầu tiên tại Việt Nam
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2018
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VÀ CHĂM SÓC BỆNH NHÂN SAU GHÉP
PHỔI TỪ NGƢỜI CHO SỐNG ĐẦU TIÊN TẠI VIỆT NAM
Đỗ Quyết*; Tạ Bá Thắng**; Đào Ngọc Bằng**; Phạm Thị Kim Nhung**
TÓM TẮT
Mục tiêu: đánh giá kết quả điều trị và chăm sóc sau ghép ở bệnh nhân ghép phổi từ người
cho sống. Đối tượng và phương pháp: BN nam, 7 tuổi, chẩn đoán giãn phế quản lan tỏa bẩm
sinh biến chứng suy hô hấp, tâm phế mạn được ghép 2 phổi từ 2 thùy phổi của người cho
sống. Đánh giá kết quả điều trị và chăm sóc bệnh nhân sau 12 tháng phẫu thuật ghép phổi. Kết
quả và kết luận: sau ghép phổi 12 tháng, bệnh nhân hồi phục nhanh về chức năng hô hấp, dinh
dưỡng, không có biến chứng thải ghép và nhiễm trùng.
* Từ khóa: Ghép phổi từ người cho sống; Điều trị; Chăm sóc sau ghép.
The Result of Post-transplantation Management and Care of the
First Lung Transplantation Case from Living Donors in Vietnam
Summary
Objectives: To evaluate the result of post-transplantation management and care of the first
lung transplantation case from living donors. Subject and method: A 7 year-old male patient with
difuse congenital bronchiectasis, chronic respiratory failure and cor-pulmonal was performed
lung transplantation from living donors. The result of post-transplantation management and care
after 12 months was reviewed. Results and conclusions: After 12 months respiratory function
and nutrition of the patient recovered quickly during the first 12 month follow-up and there were
no complications of rejection and opportunistic infection.
* Keywords: Lung transplantation from living donor; Post-transplantation management; Care.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ghép phổi là biện pháp điều trị tối ưu
cho bệnh nhân (BN) bệnh phổi ở giai
đoạn cuối khi điều trị nội khoa không kết
quả. Ghép phổi từ người cho sống được
Starnes và CS thực hiện đầu tiên từ năm
1990 cho những BN có tình trạng bệnh
nặng và thời gian sống thêm ngắn. Tuy
nhiên, thời kỳ đầu kỹ thuật có kết quả
kém, chủ yếu do ghép 1 phổi và hiệu quả
điều trị ức chế miễn dịch cũng như kiểm
soát các tai biến, biến chứng sau phẫu
thuật chưa tốt (thải ghép, nhiễm trùng).
Trong một thập kỷ trở lại đây, xu hướng
ghép 2 phổi nhiều hơn và có nhiều tiến
bộ trong điều trị và kiểm soát các tai biến,
* Học viện Quân y
** Bệnh viện Quân y 103
Người phản hồi (Corresponding): Tạ Bá Thắng (tabathang@yahoo.com)
Ngày nhận bài: 01/04/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 09/05/2018
Ngày bài báo được đăng: 23/05/2018
71
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2018
biến chứng sau ghép đã mang lại kết quả
khả quan cho kỹ thuật ghép phổi, đặc biệt
ghép phổi từ người cho sống. Hiện nay,
kỹ thuật này được chỉ định mở rộng hơn
(các bệnh phổi hạn chế, tắc nghẽn, nhiễm
trùng và tăng áp lực động mạch phổi) và số
ca ghép đã tăng lên đáng kể, chủ yếu ở
Nhật Bản, Anh, Brazil, Trung Quốc [1, 2, 9].
Các nghiên cứu cho thấy kết quả của ghép
phổi từ người cho sống phụ thuộc chủ yếu
vào quá trình điều trị và chăm sóc BN sau
ghép: điều trị tích cực, kiểm soát nhiễm
trùng, điều trị ức chế miễn dịch, can thiệp
dinh dưỡng... [3, 4, 7].
Ca ghép phổi từ người cho sống đầu
tiên tại Việt Nam được thực hiện thành
công vào ngày 21 - 2 - 2017 tại Bệnh viện
Quân y 103, Học viện Quân y. BN hồi phục
rất tốt và duy trì kết quả hơn 1 năm. ục
tiêu nghiên cứu của chúng tôi: Đánh giá kết
quả điều trị và ch m sóc BN ghép phổi từ
người cho sống sau 12 tháng.
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tƣợng nghiên cứu.
BN nam, 7 tuổi, được chẩn đoán xác
định giãn phế quản lan tỏa bẩm sinh biến
chứng suy hô hấp, tâm phế mạn, suy dinh
dưỡng nặng.
Tiêu chuẩn chẩn đoán giãn phế quản
dựa vào chụp cắt lớp vi tính độ phân giải
cao. Chỉ định ghép phổi dựa vào tiêu chuẩn
của Hội Ghép tim, phổi Quốc tế (2010) [2].
2. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Kỹ thuật ghép: người nhận và người
cho trước phẫu thuật được khám lâm
72
sàng và làm xét nghiệm để xem xét chỉ
định và đánh giá tình trạng chức năng
các cơ quan. Bố cho thùy dưới phổi trái,
bác cho thùy dưới phổi phải. Đánh giá sự
phù hợp giữa người nhận và thùy phổi
của 2 người cho về kích cỡ và chức năng
theo nhóm tác giả Nhật Bản đề xuất (Date
H và CS) [3]. Phẫu thuật lấy thùy dưới
phổi trái của người cho thứ nhất trước,
lấy thùy dưới phổi phải của người cho thứ
hai sau. Rửa và bảo quản thùy phổi trong
30 phút. Thời gian lấy và rửa mỗi thùy cách
nhau 60 phút. Tiến hành mở lồng ngực, đặt
tuần hoàn ngoài cơ thể cho người nhận,
bộc lộ và cắt phổi người nhận: cắt phổi trái
trước, phổi phải sau, sau đó thực hiện ghép
phổi trái trước, phổi phải sau. Khi ghép
xong, tiến hành tái tưới máu và thông khí
phổi.
Sau phẫu thuật, BN được thông khí
nhân tạo qua nội khí quản, kiểm soát tình
trạng hô hấp, huyết động, chăm sóc dẫn
lưu, điều trị ức chế miễn dịch phối hợp
3 thuốc (neoral, cellcep, prednisolon), điều
chỉnh nước, điện giải, nuôi dưỡng kết hợp
đường tĩnh mạch (3 ngày đầu sau mổ) và
đường tiêu hóa (sau phẫu thu ...