Khả năng hiện hữu cùa kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam - Mô hình nghiên cứu đề xuất
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 590.52 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trên thế giới cũng như tại Việt Nam, kiểm toán nội bộ đang ngày càng chứng tỏ được vai trò, tầm quan trọng và sự tất yếu trong quá trình phát triển doanh nghiệp. Mục tiêu của bài viết nhằm đề xuất mô hình nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng hiện hữu của kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khả năng hiện hữu cùa kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam - Mô hình nghiên cứu đề xuất Khả năng hiện hữu cùa kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam- Mô hình nghiên cứu đề xuất The availability of internal audit in listed companies in Vietnam - Proposed researchmodel TS. Lê Thị Thanh Mỹ* Dương Thanh Huy* Võ Hồng Hà* *Khoa Kinh tế và Kế toán – Trường Đại học Quy Nhơn Tóm tắt Trên thế giới cũng như tại Việt Nam, kiểm toán nội bộ (KTNB) đang ngày càng chứng tỏ đượcvai trò, tầm quan trọng và sự tất yếu trong quá trình phát triển doanh nghiệp (DN). Dưới sự gia tăngvề các rủi ro đe dọa đến mục tiêu thì việc thiết lập KTNB là một yêu cầu tất yếu, bởi lẽ sự tồn tại củahoạt động này sẽ giúp DN có thể đảm bảo việc tuân thủ và kiểm soát, giảm thiểu các rủi ro trong hoạtđộng kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động. Mục tiêu của bài viết nhằm đề xuất mô hìnhnghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng hiện hữu của KTNB trong doanh nghiệp niêm yết(DNNY) tại Việt Nam. Sau khi tiến hành tổng quan nghiên cứu và xem xét dựa trên lý thuyết nền,nhóm tác giả đã đưa ra 4 nhóm nhân tố thuộc về đặc điểm của DN có ảnh hưởng đến khả năng hiệnhữu của KTNB, bao gồm: Hội đồng quản trị (HDQT); Quản lý; Hệ số nợ của DN; Tỷ lệ các khoản nợphải thu và Hàng tồn kho trong tổng tài sản của DN. Từ khóa: kiểm toán nội bộ, khả năng hiện hữu, quản lý rủi ro. Abstract Internal audit has been increasingly important in the process of business development in Vietnamand around the world. Under the pressure of increasing risk of threats to the target, the establishmentof internal audit is an indispensable requirement. Internal audit will help enterprises to ensurecompliance and control, minimize risks in business activities, contributing to improving operationalefficiency. The purpose of this article is to propose the research model on the factors affecting theavailability of internal audit in listed companies in Vietnam. After conducting literature review andreviewing based on background theory, the authors have proposed 4 groups of factors belonging tothe characteristics of enterprises that affect the availability of internal audit including: AdministrativeCouncil; Management; Debt ratio of the enterprise; The ratio of receivables and inventories to thetotal assets of the business.Keywords: Internal audit, availability, risk management.JEL Classification: M42, M49, M40.DOI: https://doi.org/10.59006/vnfa-jaa.03202341.Đặt vấn đề 1 Tại Việt Nam, KTNB ra đời vào năm 1996, đánh dấu bằng Nghị định 59-CP ngày 03/10/1996của Chính phủ. Hơn 20 năm hình thành và phát triển việc xây dựng hệ thống KTNB trong các tổ chức,đang ngày càng được chú trọng và nâng cao. Trong quá trình chuyển mình sang nền kinh tế thị trườngcũng như hội nhập kinh tế thế giới, Việt Nam đang có những thay đổi thật sự mạnh mẽ. Các DN đangđứng trước nhiều cơ hội mới cũng như những thách thức to lớn, sự cạnh tranh để tồn tại đang trở nêngay gắt hơn bao giờ hết. Chính vì thế, các DN Việt Nam cần nhận diện các rủi ro, xem xét lại mô hìnhhoạt động và thiết lập KTNB một cách có hiệu quả, để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển bền vữngtrong tương lai. Theo Nghị định số 05/2019/NĐ-CP của Chính phủ việc tổ chức KTNB tại các DNNY ở ViệtNam, là một yêu cầu pháp lý bắt buộc. Tuy nhiên trên thực tế, số lượng các DN có KTNB tại ViệtNam còn khá khiêm tốn, số còn lại thì chưa thiết lập; hoặc nếu có thì cũng chỉ mang tính chất đối phó.Vậy thì, nguyên nhân nào dẫn đến các DN chưa muốn thiết lập KTNB? Hay nói cách khác, khả nănghiện hữu của KTNB tại các DN này phụ thuộc vào những nhân tố nào? Câu hỏi này cần được trả lời,bằng những nghiên cứu có cơ sở khoa học và thực tiễn. Trên thế giới, KTNB đã được khẳng định giá trị cả về lý luận và thực tiễn. Nhiều công trìnhnghiên cứu của các tác giả như: Raghunandan và cộng sự (2001); Arena và công sự (2009); Carey vàcộng sự (2018); Goodwin và Kent (2006);… đã khiến cho lý luận về KTNB ngày càng được hoànthiện. Trong khi đó, ở Việt Nam, dù đang ngày càng được sự quan tâm lớn từ giới học thuật cũng nhưgiới hoạt động thực tiễn: Thúy (2010); Tân (2017); Thảo (2019); Tuân (2020);… song KTNB vẫn cònlà một khái niệm khá mới mẻ. Nghiên cứu thực nghiệm về KTNB nói chung và nghiên cứu về khảnăng hiện hữu của KTNB tại các DNNY trên thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng, vẫn chưađược quan tâm nhiều tại Việt Nam. Thêm vào đó, trong bối cảnh các DNNY tại Việt Nam còn đanglúng túng trong việc thiết lập KTNB thì việc thực hiện nghiên cứu nhằm tìm ra các nhân tố ảnh hưởngđến khả năng hiện hữu của KTNB, theo nhóm tác giả là rất cần thiết. Để có thể tiến hành thực hiệnnghiên cứu thực nghiệm này, thì việc đề xuất mô hình nghiên cứu chính là bước khởi đầu trong quytrình nghiên cứu. 2. Tổng quan nghiên cứu 2.1. Tổng quan nghiên cứu nước ngoài Nghiên cứu về khả năng hiện hữu của KTNB trong DN đa phần được thực hiện tại các nước cóhoạt động KTNB phát triển như: Úc, Anh, Mỹ... Wallace và Kreutzfeldt (1991) bằng phương pháp nghiên cứu định lượng, với mẫu khảo sát là260 công ty, bao gồm cả công ty tài chính và phi tài chính đã chứng minh rằng, các nhân tố: Tínhphức tạp của DN; Lợi nhuận và Tính thanh khoản có ảnh hưởng đến việc tổ chức KTNB trong DN. Goodwin và Kent (2006) là hai tác giả tiếp theo thể hiện sự quan tâm lớn, đối với hướng nghiêncứu này: 2 - Trong nghiên cứu thứ nhất được công bố vào năm 2004, với mẫu nghiên cứu là các DNNYhàng ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khả năng hiện hữu cùa kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam - Mô hình nghiên cứu đề xuất Khả năng hiện hữu cùa kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam- Mô hình nghiên cứu đề xuất The availability of internal audit in listed companies in Vietnam - Proposed researchmodel TS. Lê Thị Thanh Mỹ* Dương Thanh Huy* Võ Hồng Hà* *Khoa Kinh tế và Kế toán – Trường Đại học Quy Nhơn Tóm tắt Trên thế giới cũng như tại Việt Nam, kiểm toán nội bộ (KTNB) đang ngày càng chứng tỏ đượcvai trò, tầm quan trọng và sự tất yếu trong quá trình phát triển doanh nghiệp (DN). Dưới sự gia tăngvề các rủi ro đe dọa đến mục tiêu thì việc thiết lập KTNB là một yêu cầu tất yếu, bởi lẽ sự tồn tại củahoạt động này sẽ giúp DN có thể đảm bảo việc tuân thủ và kiểm soát, giảm thiểu các rủi ro trong hoạtđộng kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động. Mục tiêu của bài viết nhằm đề xuất mô hìnhnghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng hiện hữu của KTNB trong doanh nghiệp niêm yết(DNNY) tại Việt Nam. Sau khi tiến hành tổng quan nghiên cứu và xem xét dựa trên lý thuyết nền,nhóm tác giả đã đưa ra 4 nhóm nhân tố thuộc về đặc điểm của DN có ảnh hưởng đến khả năng hiệnhữu của KTNB, bao gồm: Hội đồng quản trị (HDQT); Quản lý; Hệ số nợ của DN; Tỷ lệ các khoản nợphải thu và Hàng tồn kho trong tổng tài sản của DN. Từ khóa: kiểm toán nội bộ, khả năng hiện hữu, quản lý rủi ro. Abstract Internal audit has been increasingly important in the process of business development in Vietnamand around the world. Under the pressure of increasing risk of threats to the target, the establishmentof internal audit is an indispensable requirement. Internal audit will help enterprises to ensurecompliance and control, minimize risks in business activities, contributing to improving operationalefficiency. The purpose of this article is to propose the research model on the factors affecting theavailability of internal audit in listed companies in Vietnam. After conducting literature review andreviewing based on background theory, the authors have proposed 4 groups of factors belonging tothe characteristics of enterprises that affect the availability of internal audit including: AdministrativeCouncil; Management; Debt ratio of the enterprise; The ratio of receivables and inventories to thetotal assets of the business.Keywords: Internal audit, availability, risk management.JEL Classification: M42, M49, M40.DOI: https://doi.org/10.59006/vnfa-jaa.03202341.Đặt vấn đề 1 Tại Việt Nam, KTNB ra đời vào năm 1996, đánh dấu bằng Nghị định 59-CP ngày 03/10/1996của Chính phủ. Hơn 20 năm hình thành và phát triển việc xây dựng hệ thống KTNB trong các tổ chức,đang ngày càng được chú trọng và nâng cao. Trong quá trình chuyển mình sang nền kinh tế thị trườngcũng như hội nhập kinh tế thế giới, Việt Nam đang có những thay đổi thật sự mạnh mẽ. Các DN đangđứng trước nhiều cơ hội mới cũng như những thách thức to lớn, sự cạnh tranh để tồn tại đang trở nêngay gắt hơn bao giờ hết. Chính vì thế, các DN Việt Nam cần nhận diện các rủi ro, xem xét lại mô hìnhhoạt động và thiết lập KTNB một cách có hiệu quả, để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển bền vữngtrong tương lai. Theo Nghị định số 05/2019/NĐ-CP của Chính phủ việc tổ chức KTNB tại các DNNY ở ViệtNam, là một yêu cầu pháp lý bắt buộc. Tuy nhiên trên thực tế, số lượng các DN có KTNB tại ViệtNam còn khá khiêm tốn, số còn lại thì chưa thiết lập; hoặc nếu có thì cũng chỉ mang tính chất đối phó.Vậy thì, nguyên nhân nào dẫn đến các DN chưa muốn thiết lập KTNB? Hay nói cách khác, khả nănghiện hữu của KTNB tại các DN này phụ thuộc vào những nhân tố nào? Câu hỏi này cần được trả lời,bằng những nghiên cứu có cơ sở khoa học và thực tiễn. Trên thế giới, KTNB đã được khẳng định giá trị cả về lý luận và thực tiễn. Nhiều công trìnhnghiên cứu của các tác giả như: Raghunandan và cộng sự (2001); Arena và công sự (2009); Carey vàcộng sự (2018); Goodwin và Kent (2006);… đã khiến cho lý luận về KTNB ngày càng được hoànthiện. Trong khi đó, ở Việt Nam, dù đang ngày càng được sự quan tâm lớn từ giới học thuật cũng nhưgiới hoạt động thực tiễn: Thúy (2010); Tân (2017); Thảo (2019); Tuân (2020);… song KTNB vẫn cònlà một khái niệm khá mới mẻ. Nghiên cứu thực nghiệm về KTNB nói chung và nghiên cứu về khảnăng hiện hữu của KTNB tại các DNNY trên thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng, vẫn chưađược quan tâm nhiều tại Việt Nam. Thêm vào đó, trong bối cảnh các DNNY tại Việt Nam còn đanglúng túng trong việc thiết lập KTNB thì việc thực hiện nghiên cứu nhằm tìm ra các nhân tố ảnh hưởngđến khả năng hiện hữu của KTNB, theo nhóm tác giả là rất cần thiết. Để có thể tiến hành thực hiệnnghiên cứu thực nghiệm này, thì việc đề xuất mô hình nghiên cứu chính là bước khởi đầu trong quytrình nghiên cứu. 2. Tổng quan nghiên cứu 2.1. Tổng quan nghiên cứu nước ngoài Nghiên cứu về khả năng hiện hữu của KTNB trong DN đa phần được thực hiện tại các nước cóhoạt động KTNB phát triển như: Úc, Anh, Mỹ... Wallace và Kreutzfeldt (1991) bằng phương pháp nghiên cứu định lượng, với mẫu khảo sát là260 công ty, bao gồm cả công ty tài chính và phi tài chính đã chứng minh rằng, các nhân tố: Tínhphức tạp của DN; Lợi nhuận và Tính thanh khoản có ảnh hưởng đến việc tổ chức KTNB trong DN. Goodwin và Kent (2006) là hai tác giả tiếp theo thể hiện sự quan tâm lớn, đối với hướng nghiêncứu này: 2 - Trong nghiên cứu thứ nhất được công bố vào năm 2004, với mẫu nghiên cứu là các DNNYhàng ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Kiểm toán nội bộ Quản lý rủi ro Doanh nghiệp niêm yết Thị trường chứng khoán Ngân hàng thương mạiGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Thị trường chứng khoán: Phần 1 - PGS.TS. Bùi Kim Yến, TS. Thân Thị Thu Thủy
281 trang 971 34 0 -
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định đầu tư chứng khoán của sinh viên tại Tp. Hồ Chí Minh
7 trang 570 12 0 -
2 trang 515 13 0
-
Giáo trình Quản lý dự án phần mềm: Phần 2 - Phạm Ngọc Hùng
216 trang 412 0 0 -
Các yếu tố tác động tới quyết định đầu tư chứng khoán của giới trẻ Việt Nam
7 trang 298 0 0 -
293 trang 297 0 0
-
MARKETING VÀ QUÁ TRÌNH KIỂM TRA THỰC HIỆN MARKETING
6 trang 294 0 0 -
Làm giá chứng khoán qua những con sóng nhân tạo
3 trang 283 0 0 -
Giáo trình Kinh tế năng lượng: Phần 2
85 trang 246 0 0 -
Bài giảng Bảo hiểm đại cương: Phần 1 - TS. Nguyễn Tấn Hoàng
90 trang 242 0 0