![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Khái niệm về chữ viết
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 119.72 KB
Lượt xem: 1
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Hệ thống chữ viết chỉ chung hệ thống kí hiệu dùng đề ghi lại ngôn ngữ. Nếu ngôn ngữ là hệ thống kí hiệu thì chữ viết là hệ thống kí hiệu của kí hiệu. Chữ viết có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ nhưng không thể đồng nhất ngôn ngữ và chữ viết. Người ta có thể không biết chữ nhưng vẫn có ngôn ngữ như thường. Về mặt lịch sử, ngôn ngữ xuất hiện cùng với xã hội loài người trong khi đó cho tới nay nhiều ngôn ngữ vẫn chưa có chữ viết. Con người có...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khái niệm về chữ viết Khái niệm về chữ viết Hệ thống chữ viết chỉ chung hệ thống kí hiệu dùng đề ghi lại ngôn ngữ. Nếungôn ngữ là hệ thống kí hiệu thì chữ viết là hệ thống kí hiệu của kí hiệu. Chữ viếtcó quan hệ mật thiết với ngôn ngữ nhưng không thể đồng nhất ngôn ngữ và chữviết. Người ta có thể không biết chữ nh ưng vẫn có ngôn ngữ như thường. Về mặtlịch sử, ngôn ngữ xuất hiện cùng với xã hội loài người trong khi đó cho tới naynhiều ngôn ngữ vẫn chưa có chữ viết. Con người có mặt trên trái đất hàng chụcvạn năm, nhưng mãi tới giai đoạn cao của xã hội loài người mới có chữ viết.Engels đã viết: Giai đoạn này bắt đầu với việc nấu quặng sắt và chuyển qua thờiđại văn minh với việc sáng tạo ra chữ viết có vần và việc sử dụng chữ đề ghi lờivăn(1). Đối với lịch sử phát triển của xã hội loài người, chữ viết có một vai trò rất tolớn. Ngôn ngữ, cái công cụ giao tiếp chủ yếu của con người, dầu sao vẫn có nhữnghạn chế nhất định. Vì vỏ vật chất của ngôn ngữ là âm thanh cho nên nếu ở xa nhaukhông thể nghe nhau nói được bởi vì khả năng của tai người là hữu hạn. Ở cùngmột chỗ, có thể nghe nhau nói được lại có những hạn chế khác. Các cụ ta th ườngnói: Lời nói gió bay. Mỗi lời nói chỉ được thu nhận vào lúc nó phát ra, sau đókhông còn nữa. Như vậy, ngôn ngữ cũng không vượt qua được cái hố ngăn cáchvề thời gian. Nhưng liệu người ta có thể hiểu được lời nói của nhau, khi gián cáchvề không gian và thời gian, bằng con đường truyền miệng hay không? Hiển nhiênlà có, nhưng rất hạn chế. Khả năng nhận thức của mỗi người khác nhau và trí nhớcủa con người cũng có hạn nên tình trạng tam sao thất bản không thể nào tránhkhỏi. Với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, hiện nay người ta đã dùng điệnthoại, vô tuyến điện, radio v.v... nhưng những biện pháp đó không phải là phổbiến, rộng rãi khắp mọi lĩnh vực. Trong tình hình như vậy, chữ viết có giá trị rất to lớn. Vì chữ viết dựa trên ấntượng về thị giác cho nên có thể thắng được không gian, thời gian và làm hạn chếđi nhiều hiện tượng tam sao thất bản. Nhờ có chữ viết, chúng ta mới hiểu lịch sửquá khứ của nhân loại. Không phải ngẫu nhi ên người ta gọi thời kì có chữ viếttrong quá trình phát triển của loài người là giai đoạn lịch sử còn thời kì trước đó làgiai đoạn tiền sử hoặc dã sử. Ngày nay chúng ta làm sao hiểu Trần Hưng Đạo,Nguyễn Trãi, Nguyễn Du v.v… nếu không có Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo,Truyện Kiều v.v… Nhiều người trong chúng ta có vinh dự được trực tiếp nghe đọclời di chúc của Bác Hồ, nhưng nhờ có chữ viết, những lời di chúc thi êng liêng ấycó thể đến với tất cả mọi người dân Việt Nam, tất cả nhân dân thế giới. Bản dichúc đó sẽ còn mãi mãi với các thế hệ con cháu chúng ta sau này. Đọc Tam quốc chí, mọi người còn nhớ câu chuyện giữa Khổng Minh và NguỵDiên. Khổng Minh biết Nguỵ Diên sớm muộn thế nào cũng làm phản, nhưngkhông thể nói trước tất cả những gì chưa xảy ra. Cho nên, trước khi chết, ông cònđể lại cho Khương Duy một cẩm nang đợi khi Diên làm phản mời được giở raxem. Về sau Nguỵ Diên làm phản thật. Giở cẩm nang thấy Khổng Minh dặn –bằng chữ viết – hãy thách Nguỵ Diên đứng trước ba quân hô lớn 3 lần: Ai dámgiết ta! Ai dám giết ta! Ai dám giết ta!. Quả nhiên, chưa nói dứt lời Nguỵ Diên đãbị Mã Đại từ đằng sau xông lên chém rơi đầu. Mẩu chuyện trên đây chứng tỏ rằng,chữ viết chẳng những thắng được không gian và thời gian mà còn phát huy đượctác dụng trong những hoàn cảnh giao tiếp không dùng ngôn ngữ bằng lời được.Với sức mạnh đó, chữ viết thực sự là một động lực phát triển của xã hội loàingười. Nó thực sự giúp cho con người có thể kế thừa và học tập lẫn nhau trên tấtcả các lĩnh vực hoạt động, từ lĩnh vực văn hoá, lịch sử đến lĩnh vực khoa học kĩthuật. Trong phạm vi một ngôn ngữ nhất định, chữ viết còn có tác dụng thúc đẩyquá trình thống nhất ngôn ngữ, chuẩn hoá ngôn ngữ nữa. Chữ viết là sáng tạo kì diệu của con người, nhưng sản phẩm kì diệu đó khôngphải được đẻ ra một cách dễ dàng mà phải trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Những chữ viết cổ nhất không ra đời một cách ngẫu nhiên, đột ngột mà đềutrên những cơ sở nhất định, tức là có nguồn gốc của nó. Từ xưa tới nay con ngườiluôn luôn sử dụng những biện pháp giao tiếp bổ sung. Nếu như ngôn ngữ dựa vàoấn tượng thính giác thì các phương tiện giao tiếp bổ sung thường dựa vào ấn tượngvề thị giác. Hình thức của chúng là hiện vật và hình vẽ. Nhà sử học Herodotus đãkể rằng, các bộ lạc vùng Hắc Hải đã gửi cho hoàng đế Ba Tư Đari một lá thưgồm những con ếch, chim, chuột và một bó tên. Nội dung của nó đại khái là: Nếucác người, những người Ba Tư, không biết bay như chim, không biết nhảy trênđầm lầy như ếch, không biết chui xuống đất như chuột thì các người hãy đợi cáichết bởi những mũi tên của ta. Bộ lạc Iucơ ở Peru có một hệ thống giao tiếp bổ sung đặc biệt gọi là Kipu. Đólà một sợi dây lớn có đeo nhiều dây nhỏ ở trên đó có những nút buộc. Số lượng,cách sắp xếp và màu sắc của những dây nhỏ và những nút buộc sẽ thông báonhững nội dung khác nhau. Chẳng hạn: màu đỏ là lính, màu vàng là vàng, màutrắng là bạc, màu xanh là lúa, một nút đơn là 10; 2 nút đơn là 20; 1 nút kép là 100v.v... Người Iucơ đã dùng hình thức này để ghi nhớ lịch sử của bộ lạc mình. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khái niệm về chữ viết Khái niệm về chữ viết Hệ thống chữ viết chỉ chung hệ thống kí hiệu dùng đề ghi lại ngôn ngữ. Nếungôn ngữ là hệ thống kí hiệu thì chữ viết là hệ thống kí hiệu của kí hiệu. Chữ viếtcó quan hệ mật thiết với ngôn ngữ nhưng không thể đồng nhất ngôn ngữ và chữviết. Người ta có thể không biết chữ nh ưng vẫn có ngôn ngữ như thường. Về mặtlịch sử, ngôn ngữ xuất hiện cùng với xã hội loài người trong khi đó cho tới naynhiều ngôn ngữ vẫn chưa có chữ viết. Con người có mặt trên trái đất hàng chụcvạn năm, nhưng mãi tới giai đoạn cao của xã hội loài người mới có chữ viết.Engels đã viết: Giai đoạn này bắt đầu với việc nấu quặng sắt và chuyển qua thờiđại văn minh với việc sáng tạo ra chữ viết có vần và việc sử dụng chữ đề ghi lờivăn(1). Đối với lịch sử phát triển của xã hội loài người, chữ viết có một vai trò rất tolớn. Ngôn ngữ, cái công cụ giao tiếp chủ yếu của con người, dầu sao vẫn có nhữnghạn chế nhất định. Vì vỏ vật chất của ngôn ngữ là âm thanh cho nên nếu ở xa nhaukhông thể nghe nhau nói được bởi vì khả năng của tai người là hữu hạn. Ở cùngmột chỗ, có thể nghe nhau nói được lại có những hạn chế khác. Các cụ ta th ườngnói: Lời nói gió bay. Mỗi lời nói chỉ được thu nhận vào lúc nó phát ra, sau đókhông còn nữa. Như vậy, ngôn ngữ cũng không vượt qua được cái hố ngăn cáchvề thời gian. Nhưng liệu người ta có thể hiểu được lời nói của nhau, khi gián cáchvề không gian và thời gian, bằng con đường truyền miệng hay không? Hiển nhiênlà có, nhưng rất hạn chế. Khả năng nhận thức của mỗi người khác nhau và trí nhớcủa con người cũng có hạn nên tình trạng tam sao thất bản không thể nào tránhkhỏi. Với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, hiện nay người ta đã dùng điệnthoại, vô tuyến điện, radio v.v... nhưng những biện pháp đó không phải là phổbiến, rộng rãi khắp mọi lĩnh vực. Trong tình hình như vậy, chữ viết có giá trị rất to lớn. Vì chữ viết dựa trên ấntượng về thị giác cho nên có thể thắng được không gian, thời gian và làm hạn chếđi nhiều hiện tượng tam sao thất bản. Nhờ có chữ viết, chúng ta mới hiểu lịch sửquá khứ của nhân loại. Không phải ngẫu nhi ên người ta gọi thời kì có chữ viếttrong quá trình phát triển của loài người là giai đoạn lịch sử còn thời kì trước đó làgiai đoạn tiền sử hoặc dã sử. Ngày nay chúng ta làm sao hiểu Trần Hưng Đạo,Nguyễn Trãi, Nguyễn Du v.v… nếu không có Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo,Truyện Kiều v.v… Nhiều người trong chúng ta có vinh dự được trực tiếp nghe đọclời di chúc của Bác Hồ, nhưng nhờ có chữ viết, những lời di chúc thi êng liêng ấycó thể đến với tất cả mọi người dân Việt Nam, tất cả nhân dân thế giới. Bản dichúc đó sẽ còn mãi mãi với các thế hệ con cháu chúng ta sau này. Đọc Tam quốc chí, mọi người còn nhớ câu chuyện giữa Khổng Minh và NguỵDiên. Khổng Minh biết Nguỵ Diên sớm muộn thế nào cũng làm phản, nhưngkhông thể nói trước tất cả những gì chưa xảy ra. Cho nên, trước khi chết, ông cònđể lại cho Khương Duy một cẩm nang đợi khi Diên làm phản mời được giở raxem. Về sau Nguỵ Diên làm phản thật. Giở cẩm nang thấy Khổng Minh dặn –bằng chữ viết – hãy thách Nguỵ Diên đứng trước ba quân hô lớn 3 lần: Ai dámgiết ta! Ai dám giết ta! Ai dám giết ta!. Quả nhiên, chưa nói dứt lời Nguỵ Diên đãbị Mã Đại từ đằng sau xông lên chém rơi đầu. Mẩu chuyện trên đây chứng tỏ rằng,chữ viết chẳng những thắng được không gian và thời gian mà còn phát huy đượctác dụng trong những hoàn cảnh giao tiếp không dùng ngôn ngữ bằng lời được.Với sức mạnh đó, chữ viết thực sự là một động lực phát triển của xã hội loàingười. Nó thực sự giúp cho con người có thể kế thừa và học tập lẫn nhau trên tấtcả các lĩnh vực hoạt động, từ lĩnh vực văn hoá, lịch sử đến lĩnh vực khoa học kĩthuật. Trong phạm vi một ngôn ngữ nhất định, chữ viết còn có tác dụng thúc đẩyquá trình thống nhất ngôn ngữ, chuẩn hoá ngôn ngữ nữa. Chữ viết là sáng tạo kì diệu của con người, nhưng sản phẩm kì diệu đó khôngphải được đẻ ra một cách dễ dàng mà phải trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Những chữ viết cổ nhất không ra đời một cách ngẫu nhiên, đột ngột mà đềutrên những cơ sở nhất định, tức là có nguồn gốc của nó. Từ xưa tới nay con ngườiluôn luôn sử dụng những biện pháp giao tiếp bổ sung. Nếu như ngôn ngữ dựa vàoấn tượng thính giác thì các phương tiện giao tiếp bổ sung thường dựa vào ấn tượngvề thị giác. Hình thức của chúng là hiện vật và hình vẽ. Nhà sử học Herodotus đãkể rằng, các bộ lạc vùng Hắc Hải đã gửi cho hoàng đế Ba Tư Đari một lá thưgồm những con ếch, chim, chuột và một bó tên. Nội dung của nó đại khái là: Nếucác người, những người Ba Tư, không biết bay như chim, không biết nhảy trênđầm lầy như ếch, không biết chui xuống đất như chuột thì các người hãy đợi cáichết bởi những mũi tên của ta. Bộ lạc Iucơ ở Peru có một hệ thống giao tiếp bổ sung đặc biệt gọi là Kipu. Đólà một sợi dây lớn có đeo nhiều dây nhỏ ở trên đó có những nút buộc. Số lượng,cách sắp xếp và màu sắc của những dây nhỏ và những nút buộc sẽ thông báonhững nội dung khác nhau. Chẳng hạn: màu đỏ là lính, màu vàng là vàng, màutrắng là bạc, màu xanh là lúa, một nút đơn là 10; 2 nút đơn là 20; 1 nút kép là 100v.v... Người Iucơ đã dùng hình thức này để ghi nhớ lịch sử của bộ lạc mình. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Làm quen chữ viết phương pháp làm quen chữ viết cách dạy làm quen chữ viết nhận dạng chữ viết khái niệm chữ viếtTài liệu liên quan:
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Làm quen chữ viết cho trẻ 5-6 tuổi qua việc đọc và viết
7 trang 141 0 0 -
Xử lý ảnh số - Nhập môn kỹ thuật: Phần 2
248 trang 41 0 0 -
121 trang 37 0 0
-
Về xử lý tiếng Việt trong công nghệ thông tin
15 trang 19 0 0 -
Hiệu quả của cách tiếp cận giáo dục ngôn ngữ cân bằng trong việc hướng dẫn trẻ làm quen chữ viết
10 trang 19 0 0 -
Vai trò của chữ viết và một vài nhận xét về các kiểu chữ viết
3 trang 18 0 0 -
Khóa luận tốt nghiêp: Tìm hiểu một số phương pháp trích chọn đặc trưng cho nhận dạng chữ viết
53 trang 18 0 0 -
LUẬN VĂN: MẠNG NEURAL RBF VÀ ỨNG DỤNG NHẬN DẠNG CHỮ VIẾT TAY
58 trang 16 0 0 -
Kết hợp các bộ phận phân lớp SVM cho việc nhận dạng chữ Việt viết tay rời rạc
10 trang 16 0 0 -
Một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo lớn làm quen chữ viết
12 trang 14 0 0