Khái quát về việc khai khẩn thời Pháp thuộc ở Nam kỳ 1
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 118.98 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Sau đây vài con số, gọi là để chỉ dẫn lúc người Pháp cai trị đến cuối năm 1929, rút phần lớn từ tài liệu do viên chức Pháp soạn ra. Lúc bấy giờ, việc thống kê đã tương đối chính xác, ranh giới các tỉnh đã cố định, chỉ trừ giai đoạn sơ khởi. Tuy nhiên, có nhiều việc ghi trên giấy tờ, trên nghị định nhưng không áp dụng đúng mức hoặc bị méo mó (trường hợp những nghị định cho khẩn đất, trường hợp Nhà Băng Canh nông cho vay), hoặc những báo cáo chánh thức căn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khái quát về việc khai khẩn thời Pháp thuộc ở Nam kỳ 1Khái quát về việc khai khẩn thời Pháp thuộc ở Nam kỳ 1Sau đây vài con số, gọi là để chỉ dẫn lúc người Pháp cai trị đến cuối năm 1929, rútphần lớn từ tài liệu do viên chức Pháp soạn ra. Lúc bấy giờ, việc thống kê đãtương đối chính xác, ranh giới các tỉnh đã cố định, chỉ trừ giai đoạn sơ khởi. Tuynhiên, có nhiều việc ghi trên giấy tờ, trên nghị định nhưng không áp dụng đúngmức hoặc bị méo mó (tr ường hợp những nghị định cho khẩn đất, trường hợp NhàBăng Canh nông cho vay), hoặc những báo cáo chánh thức căn cứ vào tài liệu dohương chức thời xưa sưu tầm về dân số, sản lượng.— Dân số vào năm 1873 : 1 500 000 người.Đất đã khai thác : 600.000 mẫu tây làm ruộng và 90.000 mẫu tây vườn tược, hoamàu phụ (dừa, cau, thuốc, mía, bắp...)— Dân số vào năm 1929 : 4.500.000 người (tăng gấp ba lần).Đất đã khai thác : 2.440.000 mẫu tây làm ruộng và 170.000 mẫu trồng bắp, mía,dừa, thuốc, đậu... (trong số này kể luôn 87.000 mẫu trồng cây cao su). Ngoài ra,còn vườn cây ăn trái từ 12.000 đến 15.000 mẫu.Như vậy riêng về ruộng nương, diện tích tăng gấp 4 lần, sau khoảng 60 năm thựcdân cai trị.— Đường giao thông vào năm 1929 :Quốc lộ (gọi là lộ Đông Dương) : 1.013 kmLiên tỉnh lộ : 1.083 kmTỉnh lộ 1.728 kmTổng cộng : 3.824 km, ngoài ra còn 3.243 km hương lộ xấu và nhỏ, lắm khi mùamưa không dùng được.— Kinh đào (kinh xáng múc hoặc đào tay) : 1.664 kmMiền Đông Nam kỳ đất cao, nhiều rừng, là khu vực đa canh. Miền Tây Nam làkhu vực độc canh.Đất miền Đông đại khái chia ra 150.000 mẫu làm ruộng, hơn 80.000 mẫu trồngcao su, 7.5000 mẫu trồng mía, 800 mẫu vườn tược, đậu, thuốc (trong tỉnh GiaĐịnh), 600 mẫu trồng gòn ở Thủ Dầu Một, 450 mẫu trồng cà phê (trong đó 300mẫu ở Thủ Dầu Một), lại còn vài vườn tiêu ở Bà Rịa.Đất miền Tây Nam dành ưu tiên cho ruộng lúa, chiếm khoảng 2.400.000 mẫutrong tổng số đất có trồng tỉa của miền này là 2.460.000 mẫu, tức là 97 % diện tíchtrồng trọt, ngoài ra nên kể thêm khoảng 20.000 mẫu vườn cây ăn trái.Ruộng lúa miền Tây Nam đứng hàng đầu, chiếm 92 % diện tích trồng tỉa của Namkỳ, và là 37 % diện tích của toàn lãnh thổ Nam kỳ. Mức sản xuất ước định như sauMùa 1924—1925 : 22.270.000 quintauxMùa 1925—1246 : 19.900.000Mùa 1926—1927 :Mùa 1927—1928 : 28.239.500Mùa 1928—1929 : 21.500.000Tính đổ đồng, mỗi người ăn từ 175 đến 219 kg mỗi năm, ngoài ra còn dùng để nấurượu, nuôi gia súc. Số d ư đem xuất cảng. Lúc trước Miến Điện là nước xuất cảnglúa đứng đầu thế giới nhưng từ năm 1925, Nam kỳ lại dẫn đầu. Gạo Nam kỳ kémphẩm chất hơn gạo Miến Điện vì quá nát, nhiều tấm.Về cao su, tuy phát triển mạnh nh ưng chỉ có 1,9 % của tổng số sản xuất trên thếgiới.Năng xuất lúa còn kém, đất tốt thâu hoạc 1.600 kg lúa mỗi mẫu, đất trung bình vàđất xấu từ 400 kg đến 600 kg, thua xa các n ước khác. Lúc bấy giờ, ở các tỉnh miềnHậu giang chưa biết phân hóa học là gì.ảnh hưởng của kinh đàoTrước khi Pháp đến, những vùng thuận lợi có sông rạch đều làm ruộng rồi. Trongthời cai trị của người Pháp, có thêm hai việc lớn :— Đào kinh thêm ở những nơi có thể làm ruộng được, tạo đường giao thôngchuyên chở, rút bớt nước lụt, rút bớt phèn.— Vài giống lúa sạ được canh tác có kết quả ở những nơi mực nước lụt quá cao làloại lúa thường (lúa cấy) không sống nổi.Việc đào kinh cứ gia tăng từ năm 1880 :1880—1890 đào 2.110.000 thước khối đất. Năm 1890, diện tích ruộng là 932.000mẫu, tăng 169.000 mẫu, so với thời đàng cựu.1890—1900 đào 8.106.000 thước khối. Năm 1900, diện tích ruộng là 1.212.000mẫu, tăng 280.000 mẫu so với năm 1890.1900—1910 đào 27.491.000 thước khối đất. Năm 1910, diện tích canh tác là1.542.000 mẫu, so với năm 1900, tăng 331.000 mẫu.1910—1920 đào 66.104.000 thước khối đất. Năm 1920, diện tích canh tác l à1.953.000 mẫu, tức gia tăng 410.000 mẫu so với năm 1910.1920—1930 đào 72.042.000 thước khối. Diện tích canh tác năm 1930 là 2.452.000mẫu, so với năm 1920, tăng thêm 499.000 mẫu.Nhìn qua thì thập niên đầu (1880—1890) đến thập niên chót, số thước khối đấtphải đào để khẩn thêm một mẫu ruộng là 12 thước khối, rồi tăng lên đến 28, đến83, rồi phải 161, đến mức 144 thước khối.Như vậy có nghĩa là trong tổng quát, càng ngày việc đào kinh càng tốn kém hơn.Năm 1890, muốn khai thác một mẫu đất mới, chỉ cần đào 12 thước khối. Năm1930, muốn khai thác thêm một mẫu đất phải đào đến 144 thước khối, hơn 10 lần.Hiện tượng trên đây có thể giải thích :— Trước khi người Pháp đào kinh xáng đã có một số đất ruộng khá tốt, có năngxuất cao sẵn rồi, không đào thêm một thước khối đất nào nữa thì cũng có dư lúa đểbán ra ngoài.— Diện tích đất hoang chỉ có giới hạn, càng đào kinh thì diện tích ấy càng thu hẹplại. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khái quát về việc khai khẩn thời Pháp thuộc ở Nam kỳ 1Khái quát về việc khai khẩn thời Pháp thuộc ở Nam kỳ 1Sau đây vài con số, gọi là để chỉ dẫn lúc người Pháp cai trị đến cuối năm 1929, rútphần lớn từ tài liệu do viên chức Pháp soạn ra. Lúc bấy giờ, việc thống kê đãtương đối chính xác, ranh giới các tỉnh đã cố định, chỉ trừ giai đoạn sơ khởi. Tuynhiên, có nhiều việc ghi trên giấy tờ, trên nghị định nhưng không áp dụng đúngmức hoặc bị méo mó (tr ường hợp những nghị định cho khẩn đất, trường hợp NhàBăng Canh nông cho vay), hoặc những báo cáo chánh thức căn cứ vào tài liệu dohương chức thời xưa sưu tầm về dân số, sản lượng.— Dân số vào năm 1873 : 1 500 000 người.Đất đã khai thác : 600.000 mẫu tây làm ruộng và 90.000 mẫu tây vườn tược, hoamàu phụ (dừa, cau, thuốc, mía, bắp...)— Dân số vào năm 1929 : 4.500.000 người (tăng gấp ba lần).Đất đã khai thác : 2.440.000 mẫu tây làm ruộng và 170.000 mẫu trồng bắp, mía,dừa, thuốc, đậu... (trong số này kể luôn 87.000 mẫu trồng cây cao su). Ngoài ra,còn vườn cây ăn trái từ 12.000 đến 15.000 mẫu.Như vậy riêng về ruộng nương, diện tích tăng gấp 4 lần, sau khoảng 60 năm thựcdân cai trị.— Đường giao thông vào năm 1929 :Quốc lộ (gọi là lộ Đông Dương) : 1.013 kmLiên tỉnh lộ : 1.083 kmTỉnh lộ 1.728 kmTổng cộng : 3.824 km, ngoài ra còn 3.243 km hương lộ xấu và nhỏ, lắm khi mùamưa không dùng được.— Kinh đào (kinh xáng múc hoặc đào tay) : 1.664 kmMiền Đông Nam kỳ đất cao, nhiều rừng, là khu vực đa canh. Miền Tây Nam làkhu vực độc canh.Đất miền Đông đại khái chia ra 150.000 mẫu làm ruộng, hơn 80.000 mẫu trồngcao su, 7.5000 mẫu trồng mía, 800 mẫu vườn tược, đậu, thuốc (trong tỉnh GiaĐịnh), 600 mẫu trồng gòn ở Thủ Dầu Một, 450 mẫu trồng cà phê (trong đó 300mẫu ở Thủ Dầu Một), lại còn vài vườn tiêu ở Bà Rịa.Đất miền Tây Nam dành ưu tiên cho ruộng lúa, chiếm khoảng 2.400.000 mẫutrong tổng số đất có trồng tỉa của miền này là 2.460.000 mẫu, tức là 97 % diện tíchtrồng trọt, ngoài ra nên kể thêm khoảng 20.000 mẫu vườn cây ăn trái.Ruộng lúa miền Tây Nam đứng hàng đầu, chiếm 92 % diện tích trồng tỉa của Namkỳ, và là 37 % diện tích của toàn lãnh thổ Nam kỳ. Mức sản xuất ước định như sauMùa 1924—1925 : 22.270.000 quintauxMùa 1925—1246 : 19.900.000Mùa 1926—1927 :Mùa 1927—1928 : 28.239.500Mùa 1928—1929 : 21.500.000Tính đổ đồng, mỗi người ăn từ 175 đến 219 kg mỗi năm, ngoài ra còn dùng để nấurượu, nuôi gia súc. Số d ư đem xuất cảng. Lúc trước Miến Điện là nước xuất cảnglúa đứng đầu thế giới nhưng từ năm 1925, Nam kỳ lại dẫn đầu. Gạo Nam kỳ kémphẩm chất hơn gạo Miến Điện vì quá nát, nhiều tấm.Về cao su, tuy phát triển mạnh nh ưng chỉ có 1,9 % của tổng số sản xuất trên thếgiới.Năng xuất lúa còn kém, đất tốt thâu hoạc 1.600 kg lúa mỗi mẫu, đất trung bình vàđất xấu từ 400 kg đến 600 kg, thua xa các n ước khác. Lúc bấy giờ, ở các tỉnh miềnHậu giang chưa biết phân hóa học là gì.ảnh hưởng của kinh đàoTrước khi Pháp đến, những vùng thuận lợi có sông rạch đều làm ruộng rồi. Trongthời cai trị của người Pháp, có thêm hai việc lớn :— Đào kinh thêm ở những nơi có thể làm ruộng được, tạo đường giao thôngchuyên chở, rút bớt nước lụt, rút bớt phèn.— Vài giống lúa sạ được canh tác có kết quả ở những nơi mực nước lụt quá cao làloại lúa thường (lúa cấy) không sống nổi.Việc đào kinh cứ gia tăng từ năm 1880 :1880—1890 đào 2.110.000 thước khối đất. Năm 1890, diện tích ruộng là 932.000mẫu, tăng 169.000 mẫu, so với thời đàng cựu.1890—1900 đào 8.106.000 thước khối. Năm 1900, diện tích ruộng là 1.212.000mẫu, tăng 280.000 mẫu so với năm 1890.1900—1910 đào 27.491.000 thước khối đất. Năm 1910, diện tích canh tác là1.542.000 mẫu, so với năm 1900, tăng 331.000 mẫu.1910—1920 đào 66.104.000 thước khối đất. Năm 1920, diện tích canh tác l à1.953.000 mẫu, tức gia tăng 410.000 mẫu so với năm 1910.1920—1930 đào 72.042.000 thước khối. Diện tích canh tác năm 1930 là 2.452.000mẫu, so với năm 1920, tăng thêm 499.000 mẫu.Nhìn qua thì thập niên đầu (1880—1890) đến thập niên chót, số thước khối đấtphải đào để khẩn thêm một mẫu ruộng là 12 thước khối, rồi tăng lên đến 28, đến83, rồi phải 161, đến mức 144 thước khối.Như vậy có nghĩa là trong tổng quát, càng ngày việc đào kinh càng tốn kém hơn.Năm 1890, muốn khai thác một mẫu đất mới, chỉ cần đào 12 thước khối. Năm1930, muốn khai thác thêm một mẫu đất phải đào đến 144 thước khối, hơn 10 lần.Hiện tượng trên đây có thể giải thích :— Trước khi người Pháp đào kinh xáng đã có một số đất ruộng khá tốt, có năngxuất cao sẵn rồi, không đào thêm một thước khối đất nào nữa thì cũng có dư lúa đểbán ra ngoài.— Diện tích đất hoang chỉ có giới hạn, càng đào kinh thì diện tích ấy càng thu hẹplại. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
lịch sử văn hóa việt nam tài liệu lịch sử hành trình khai hoang Việt Nam tài liệu về hành trình khai hoang Việt Nam lịch sử Việt NamGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 146 0 0 -
Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam - Trần Quốc Vương (chủ biên)
31 trang 116 0 0 -
Lịch sử văn minh thế giới: Thành tựu văn minh Ả Rập
27 trang 97 1 0 -
69 trang 81 0 0
-
82 trang 75 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 60 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 59 0 0 -
11 trang 51 0 0
-
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 50 0 0 -
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 47 0 0