Danh mục

Khẩn hoang Cần Thơ, đầu cầu và thủ đô miền Hậu giang 4

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 130.68 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (8 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Báo cáo năm 1909—1910 : Từ khi xảy ra vụ án Gilbert Chiếu tới nay, chẳng có sự việc gì nổi bật, đáng ghi... “Nhưng khi tiếp xúc với người bổn xứ, ngay đến những người đã từng phục vụ nhà nước Pháp một cách hữu ích, ta phải giựt mình vì thái độ chỉ trích của họ đối với tất cả những gì liên quan đến chính quyền thuộc địa, một lối chỉ trích mỉa mai, cay cú”. Báo cáo năm 1910—1911 : ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khẩn hoang Cần Thơ, đầu cầu và thủ đô miền Hậu giang 4 Khẩn hoang Cần Thơ, đầu cầu và thủ đô miền Hậu giang 4Báo cáo năm 1909—1910 : Từ khi xảy ra vụ án Gilbert Chiếu tới nay, chẳng cósự việc gì nổi bật, đáng ghi... “Nhưng khi tiếp xúc với người bổn xứ, ngay đếnnhững người đã từng phục vụ nhà nước Pháp một cách hữu ích, ta phải giựt mìnhvì thái độ chỉ trích của họ đối với tất cả những gì liên quan đến chính quyền thuộcđịa, một lối chỉ trích mỉa mai, cay cú”.Báo cáo năm 1910 —1911 : “Không có cu ộc biến loạn, không có sự bộc lộ cụ thểnào xảy ra. Tuy nhiên, dưới bề ngoài yên ổn này ta nhận ra một cách dễ dàng làcòn một phần của dân chúng — may thay số người này không đông đảo cho lắm— họ có thái độ đối lập và thái độ chỉ trích không nhân nhượng, tận gốc, đối vớitất cả những gì của chánh quyền, những gì xuất phát từ phía người Pháp”. GilbertChiếu được tòa xử miễn tố, vì vậy mà họ càng lừng lẫy hơn, lại còn một số ngườiđồng lõa trong vụ án cũng được miễn tố. Dân trong tỉnh đủ sức đóng thuế, nhưngtình hình bên Mãn Châu đã có ảnh hưởng ở toàn cõi Viễn Đông. Cầm đầu nhómchống đối chính quyền, có nhiều viên thư ký hoặc quan lại đã bị cách chức, họđang sống ngày qua ngày.Thiên Địa Hội phát triển đặc biệt ở vùng Rạch Giá. Tháng 5/1909, nhà nước phátgiác từ 3 đến 400 người gia nhập hội, chừng 15 người cầm đầu bị đưa ra tòa. Năm1910—1911, chủ tỉnh Cần Thơ lại bực mình vì sau 50 năm thống trị của ngườiPháp mà những hội như thế ấy tại sao lại có thể tồn tại và phát triển ? Theo viênchủ tỉnh này, lý do chánh là sự bất lực của các tòa án đã xử phạt quá nhẹ nên dânkhông sợ.Một tài liệu khám phá tổ chức Thiên Địa Hội ở vùng Cần Thơ thuộc về Nghĩa Hòađoàn (gọi theo giọng Tàu là Dì Hóa). Về cách tổ chức thì giống như các nhómThiên Địa Hội khác, với chủ soái, phó chủ soái, chánh chủ h ương, phó chủ hương.Hội viên lấy bí danh, theo họ của các vị ngũ tổ thời trước như Vạn Vân Long,Hồng Vạn Chương. Chỉ trừ một số người Huê kiều làm chánh chủ soái, còn baonhiêu đều là hương chức. Đặc biệt là về chức vụ thảo hài, hồng côn, bạch phiến,có riêng một người là võ bạch phiến, một người là văn bạch phiến, văn thảo hài,võ thảo hài. Phải chăng họ chú trọng đến vấn đề quân sự để khởi nghĩa trong ngàygần nhứt ?Vào những năm 1907, vùng biên giới tỉnh Cần Thơ xảy ra nạn cướp bóc, chuyênđánh ghe buôn và những chủ điền ở nơi hẻo lánh. Cần Thơ gồm đất đai ở hai bênbờ Hậu giang, giữa sông lại có cù lao, bọn cướp hoành hành nơi giáp ranh với SócTrăng, Vĩnh Long, Long Xuyên, Rạch Giá. Cầm đầu bọn cướp gồm những taykhét tiếng đầy đủ bản lãnh, nổi danh nhứt là Sáu Nhỏ. Theo lịnh của cấp trên, cáclàng được phép truy nã bọn cướp qua làng bên cạnh, mặc dầu khác tỉnh. Vì bọnchúa đảng lần hồi sa lưới nên các vụ cướp giảm lần từ 43 vụ, khoảng 1906—1907,sụt còn 14 vụ, khoảng 1908—1909.Lộ xe, chợ phố và trung tâm ngã bảy (Phụng Hiệp)Nhiều con kinh tiếp tục đào nối liền các rạch nhỏ trong tỉnh, quan trọng nhứt l àcông trình mở mang đường giao thông ở cánh đồng Phụng Hiệp mà trước kiangười Pháp gọi là Plaine des Roseaux. Đất Cần Thơ phía tả ngạn Hậu giang đã códân cư từ lâu. Phía hữu ngạn là đất tốt tuy hoang vu đầy lau sậy nh ưng dầu sao đinữa với địa thế tương đối cao (so với Châu Đốc hoặc Rạch Giá), với phù sa nướcngọt (dễ trồng hoa màu phụ), nhứt là gần đường giao thông về Sài Gòn (lúa bán cógiá) thì vẫn là nơi lý tưởng mà ai cũng muốn bám vào, không xong thì mới xuốngRạch Giá, Cà Mau là nơi đất thấp, nhiều muỗi mòng.Liệt kê việc đào kinh ở tỉnh Cần Thơ là điều rắc rối vì nhiều con kinh đào đợt đầu,rồi đợt nhì nối dài rồi mở rộng, rồi vét lại cho sâu nhiều lượt.Nên chú ý là số dân xâu dùng vào việc đào kinh nhỏ khá nhiều, cực khổ nhứt làdân vùng Rạch Gòi (về sau quận lỵ dời về Ngã Bảy, Phụng Hiệp).Chuyên viên thủy nông nghiên cứu không chính xác. Lắm vùng đất làm ruộngđược, nhưng bỗng nhiên lại trở thành đất thấp, bị ngập lụt triền miên chỉ vì ảnhhưởng của mấy con kinh đào lân cận. Trong trường hợp ấy, dân làng và điền chủphải tự nguyện xin làm xâu, đào thêm kinh phụ để cứu nguy cho ruộng đất củamình.— Đào kinh Trà ết (1902), đào kinh Bà Thậm qua Tân Lược (1899), vét lại năm1904.— Đào kinh từ ngọn Cái Bé qua Thốt Nót từ 1908 đến 1910.— Vét kinh Nhiêu Sự để nối liền Bò Hút qua Sa Đéc (1909).— Vét kinh Vàm Bi (1909 —1910), điều chỉnh lại kinh Ô Môn qua ngọn sông CáiBé (1911—1912).— Đào kinh Xẻo Vông (1908—1912).Năm 1911, vào ngày 9/4, quận Rạch Gòi có đến 2150 dân xâu làm việc thườngtrực để đào kinh. Riêng về rạch Ông Rầy (nối qua Rạch Giá) dùng đến 1230 dânxâu. Năm 1910, quận Ô Môn cung cấp 3250 dân xâu (Định Thới : 1130 người,Thới Bảo : 2120 người). Việc đào kinh không theo nguyên tắc mà luật lệ đã định(5 ngày) nhưng là làm khoán, trung bình mỗi chuyến làm xâu, mỗi người phải đàocho xong chừng 15 thước khố ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: