Kháng sinh tetracycline và những lưu ý về tác dụng phụ
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 228.20 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
(SKDS) - Tetracycline là một kháng sinh thuộc thế hệ kháng sinh cũ được tìm ra, từ năm 1948, nhưng cho đến nay nó vẫn là một kháng sinh tốt. Trong quá trình sử dụng dù tỷ lệ kháng lại kháng sinh này khá nhiều nhưng nó vẫn là một kháng sinh công hiệu và chưa thể loại bỏ khỏi tủ thuốc kháng sinh của nhân loại. Cũ mà vẫn hiệu quả Tetracycline là một dòng kháng sinh phổ rộng, có hiệu lực với hầu như các vi khuẩn gram âm cũng như gram dương. Nó đã từng được coi...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kháng sinh tetracycline và những lưu ý về tác dụng phụKháng sinh tetracycline và những lưu ý về tác dụng phụ(SKDS) - Tetracycline là một kháng sinh thuộc thế hệ kháng sinh cũ đượctìm ra, từ năm 1948, nhưng cho đến nay nó vẫn là một kháng sinh tốt. Trongquá trình sử dụng dù tỷ lệ kháng lại kháng sinh này khá nhiều nhưng nó vẫnlà một kháng sinh công hiệu và chưa thể loại bỏ khỏi tủ thuốc kháng sinhcủa nhân loại.Cũ mà vẫn hiệu quảTetracycline là một dòng kháng sinh phổ rộng, có hiệu lực với hầu như cácvi khuẩn gram âm cũng như gram dương. Nó đã từng được coi là kháng sinh“bách bệnh” dùng cho mọi loại vi khuẩn và được sử dụng khá lạm dụng. Tỷlệ kháng kháng sinh này khá cao nhưng không phải vì thế mà nó mất đi cônghiệu vốn có của nó. Với những tác dụng đặc hiệu thì tetracycline vẫn đượcbảo toàn sau 70-80 năm và là kháng sinh đầu bảng của các bệnh nhiễmChlamydiae, bệnh nhiễm Mycoplasma, Rickettsiae như sốt kiểu thương hàn,sốt hồi quy và đặc biệt là nhiễm phẩy khuẩn tả Vibrio cholerae gây ra bệnhdịch tả điển hình trong mùa hè.Tuy vậy, trong bài viết này chúng tôi muốn bàn tới tác dụng phụ củatetracycline. Dù không có nguy cơ gây dị ứng nhưng nó cũng chẳng phải làmột kháng sinh “hiền lành”. Tuy thuộc thế hệ cũ nhưng tetracycline vẫn là một kháng sinh đặc hiệu cho bệnh tả.Những tác dụng ngoại ýKhông thể phủ nhận hiệu lực của tetracycline trong việc điều trị nhiễmtrùng, đặc biệt là các nhiễm trùng thuộc những vi khuẩn kể trên. Người bệnhsẽ thấy có sự biến chuyển ngay từ liều đầu tiên cho tới khi khỏi bệnh. Songnó cũng mang theo mình những ẩn chứa không có lợi về mặt sức khỏe.Nếu nói về những cảm giác khó chịu khi dùng thuốc này thì người ta phải kểtới phản ứng làm kích ứng niêm mạc dạ dày. Sự kích ứng niêm mạc dạ dàygây ra bỏng rát bụng, bỏng rát sau xương ức, người bệnh có cảm giác buồnnôn và nôn. Cảm giác kích ứng niêm mạc dạ dày như tăng lên và rõ rệt hơnkhi người bệnh có sẵn bệnh cảnh của dạ dày và tá tràng. Do đó, người ta hạnchế tối đa sử dụng dòng kháng sinh này với người đang có dạ dày “mỏng”hoặc phải dùng trong bữa ăn để hạn chế mặt này. Người bệnh có triệu chứngbuồn nôn và nôn như sốt cao hay truyền hóa chất chữa ung thư cũng khôngsử dụng tetracycline trong điều trị.Biến chứng thứ hai của thuốc là hiện tượng giảm nhu động. Giảm nhu độngruột là một tai hại hay gặp đứng hàng thứ hai sau hiện tượng kích ứng dạ dày- ruột. Nhu động ruột là một yếu tố cần thiết để luân chuyển thức ăn tronglòng ống tiêu hóa. Nếu nhu động ruột bị giảm thì hoạt động tiêu hóa bị đìnhtrệ và người bệnh có cảm giác no lâu và vô cùng khó chịu. Hơn thế nữa, sựgiảm nhu động ruột còn gây nhiễm trùng cơ hội trên đường tiêu hóa. Vậynên, người ta không bao giờ sử dụng kháng sinh tetracycline ở bệnh nhânsau phẫu thuật bụng, vì những đối tượng này nhu động ruột sau phẫu thuậtchưa hồi phục hoàn toàn.Một tác hại mà ảnh hưởng tới thẩm mỹ nổi tiếng của dòng thuốc này là tácdụng trên răng và xương trẻ em. Do đặc tính đặc thù là kết hợp và tạo phứchợp bền (chelat) với canxi, thành phần nhiều trong xương và răng nêntetracycline dễ dàng tạo phức hợp bền với yếu tố này tại hai cơ quan đangcốt hóa. Sự lắng đọng lâu và kéo dài tetracycline sẽ gây ra hiện tượng hỏngmen răng, xỉn răng, hủy hoại sự phát triển xương. Nếu chúng ta dùngtetracycline với bà mẹ mang thai vào giai đoạn cuối của thai kỳ thì sẽ ngănchặn sự phát triển xương của trẻ em. Do vậy, kháng sinh tetracycline tuyệtđối không được sử dụng ở bà mẹ mang thai thời kỳ cuối (ba tháng cuối) vàkhông dùng cho trẻ em đến khi nào đứa trẻ được 12 tuổi.Do thuốc gây ức chế tổng hợp protein nên nó sẽ gây ra ứ đọng các axit amin,các đơn vị tiền thân của protein. Sự dư thừa các axit amin gây tăng phân giảitạo ra các sản phẩm ure và nitơ. Do đó mà thuốc làm tăng nồng độ ure huyết.Vì tác hại này mà chúng ta cần đặc biệt lưu tâm khi dùng cho người già vàngười bị các bệnh lý về thận. Nếu không, chúng ta sẽ làm cho sự gia tăng urehuyết là đỉnh điểm và gây ra tai biến, có thể dẫn đến hôn mê. Việc chú ý khisử dụng ở người cao tuổi bao gồm cả kiểm tra chức năng thận và theo dõi sáttrong dùng thuốc.Nếu xét về độc tính trên gan thì tetracycline là một thuốc kháng sinh gâyviêm gan điển hình trong họ hàng nhà kháng sinh. Thuốc gây ra viêm gan vàviêm tụy mức độ nặng nếu chúng ta dùng liều cao và kéo dài. Trên nhữngđối tượng có các bệnh lý sẵn có về gan và tụy như viêm gan virut, viêm tụy,viêm gan tắc mật, viêm gan vàng da thì không nên sử dụng kháng sinh nàytrong điều trị để phòng biến cố bệnh bị nặng thêm.Cuối cùng, một biến cố cần chú ý nhất đó là tăng áp lực nội sọ. Người tachưa rõ cơ chế nhưng đã có người bệnh sử dụng tetracycline và bị tăng áplực nội sọ chỉ sau 3 ngày dùng thuốc. Sự tăng áp lực nội sọ là nặng nề và nócó thể gây tử vong cho nạn nhân. Tuy tần suất gặp phải biến cố này là thấpnhưng nó vẫn là một nguy cơ, nhất là người có nguy cơ tăng áp lực nội s ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kháng sinh tetracycline và những lưu ý về tác dụng phụKháng sinh tetracycline và những lưu ý về tác dụng phụ(SKDS) - Tetracycline là một kháng sinh thuộc thế hệ kháng sinh cũ đượctìm ra, từ năm 1948, nhưng cho đến nay nó vẫn là một kháng sinh tốt. Trongquá trình sử dụng dù tỷ lệ kháng lại kháng sinh này khá nhiều nhưng nó vẫnlà một kháng sinh công hiệu và chưa thể loại bỏ khỏi tủ thuốc kháng sinhcủa nhân loại.Cũ mà vẫn hiệu quảTetracycline là một dòng kháng sinh phổ rộng, có hiệu lực với hầu như cácvi khuẩn gram âm cũng như gram dương. Nó đã từng được coi là kháng sinh“bách bệnh” dùng cho mọi loại vi khuẩn và được sử dụng khá lạm dụng. Tỷlệ kháng kháng sinh này khá cao nhưng không phải vì thế mà nó mất đi cônghiệu vốn có của nó. Với những tác dụng đặc hiệu thì tetracycline vẫn đượcbảo toàn sau 70-80 năm và là kháng sinh đầu bảng của các bệnh nhiễmChlamydiae, bệnh nhiễm Mycoplasma, Rickettsiae như sốt kiểu thương hàn,sốt hồi quy và đặc biệt là nhiễm phẩy khuẩn tả Vibrio cholerae gây ra bệnhdịch tả điển hình trong mùa hè.Tuy vậy, trong bài viết này chúng tôi muốn bàn tới tác dụng phụ củatetracycline. Dù không có nguy cơ gây dị ứng nhưng nó cũng chẳng phải làmột kháng sinh “hiền lành”. Tuy thuộc thế hệ cũ nhưng tetracycline vẫn là một kháng sinh đặc hiệu cho bệnh tả.Những tác dụng ngoại ýKhông thể phủ nhận hiệu lực của tetracycline trong việc điều trị nhiễmtrùng, đặc biệt là các nhiễm trùng thuộc những vi khuẩn kể trên. Người bệnhsẽ thấy có sự biến chuyển ngay từ liều đầu tiên cho tới khi khỏi bệnh. Songnó cũng mang theo mình những ẩn chứa không có lợi về mặt sức khỏe.Nếu nói về những cảm giác khó chịu khi dùng thuốc này thì người ta phải kểtới phản ứng làm kích ứng niêm mạc dạ dày. Sự kích ứng niêm mạc dạ dàygây ra bỏng rát bụng, bỏng rát sau xương ức, người bệnh có cảm giác buồnnôn và nôn. Cảm giác kích ứng niêm mạc dạ dày như tăng lên và rõ rệt hơnkhi người bệnh có sẵn bệnh cảnh của dạ dày và tá tràng. Do đó, người ta hạnchế tối đa sử dụng dòng kháng sinh này với người đang có dạ dày “mỏng”hoặc phải dùng trong bữa ăn để hạn chế mặt này. Người bệnh có triệu chứngbuồn nôn và nôn như sốt cao hay truyền hóa chất chữa ung thư cũng khôngsử dụng tetracycline trong điều trị.Biến chứng thứ hai của thuốc là hiện tượng giảm nhu động. Giảm nhu độngruột là một tai hại hay gặp đứng hàng thứ hai sau hiện tượng kích ứng dạ dày- ruột. Nhu động ruột là một yếu tố cần thiết để luân chuyển thức ăn tronglòng ống tiêu hóa. Nếu nhu động ruột bị giảm thì hoạt động tiêu hóa bị đìnhtrệ và người bệnh có cảm giác no lâu và vô cùng khó chịu. Hơn thế nữa, sựgiảm nhu động ruột còn gây nhiễm trùng cơ hội trên đường tiêu hóa. Vậynên, người ta không bao giờ sử dụng kháng sinh tetracycline ở bệnh nhânsau phẫu thuật bụng, vì những đối tượng này nhu động ruột sau phẫu thuậtchưa hồi phục hoàn toàn.Một tác hại mà ảnh hưởng tới thẩm mỹ nổi tiếng của dòng thuốc này là tácdụng trên răng và xương trẻ em. Do đặc tính đặc thù là kết hợp và tạo phứchợp bền (chelat) với canxi, thành phần nhiều trong xương và răng nêntetracycline dễ dàng tạo phức hợp bền với yếu tố này tại hai cơ quan đangcốt hóa. Sự lắng đọng lâu và kéo dài tetracycline sẽ gây ra hiện tượng hỏngmen răng, xỉn răng, hủy hoại sự phát triển xương. Nếu chúng ta dùngtetracycline với bà mẹ mang thai vào giai đoạn cuối của thai kỳ thì sẽ ngănchặn sự phát triển xương của trẻ em. Do vậy, kháng sinh tetracycline tuyệtđối không được sử dụng ở bà mẹ mang thai thời kỳ cuối (ba tháng cuối) vàkhông dùng cho trẻ em đến khi nào đứa trẻ được 12 tuổi.Do thuốc gây ức chế tổng hợp protein nên nó sẽ gây ra ứ đọng các axit amin,các đơn vị tiền thân của protein. Sự dư thừa các axit amin gây tăng phân giảitạo ra các sản phẩm ure và nitơ. Do đó mà thuốc làm tăng nồng độ ure huyết.Vì tác hại này mà chúng ta cần đặc biệt lưu tâm khi dùng cho người già vàngười bị các bệnh lý về thận. Nếu không, chúng ta sẽ làm cho sự gia tăng urehuyết là đỉnh điểm và gây ra tai biến, có thể dẫn đến hôn mê. Việc chú ý khisử dụng ở người cao tuổi bao gồm cả kiểm tra chức năng thận và theo dõi sáttrong dùng thuốc.Nếu xét về độc tính trên gan thì tetracycline là một thuốc kháng sinh gâyviêm gan điển hình trong họ hàng nhà kháng sinh. Thuốc gây ra viêm gan vàviêm tụy mức độ nặng nếu chúng ta dùng liều cao và kéo dài. Trên nhữngđối tượng có các bệnh lý sẵn có về gan và tụy như viêm gan virut, viêm tụy,viêm gan tắc mật, viêm gan vàng da thì không nên sử dụng kháng sinh nàytrong điều trị để phòng biến cố bệnh bị nặng thêm.Cuối cùng, một biến cố cần chú ý nhất đó là tăng áp lực nội sọ. Người tachưa rõ cơ chế nhưng đã có người bệnh sử dụng tetracycline và bị tăng áplực nội sọ chỉ sau 3 ngày dùng thuốc. Sự tăng áp lực nội sọ là nặng nề và nócó thể gây tử vong cho nạn nhân. Tuy tần suất gặp phải biến cố này là thấpnhưng nó vẫn là một nguy cơ, nhất là người có nguy cơ tăng áp lực nội s ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
thuốc khánh sinh tác dụng phụ của thuốc kháng sinh điều cần biết về thuốc kháng sinh y học cơ sở kiến thức về thuốc kiến thức y họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Báo cáo: Khảo sát đặc điểm tăng huyết áp ở người có tuổi tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
9 trang 181 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 165 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 125 0 0 -
4 trang 106 0 0
-
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 105 0 0 -
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 76 0 0 -
Giáo trình Y học cơ sở (Tài liệu dành cho Dược trung cấp) - Trường Trung cấp Y tế Tây Ninh
285 trang 58 1 0 -
XÂY DỰNG VHI (VOICE HANDICAP INDEX) PHIÊN BẢN TIẾNG VIỆT
25 trang 50 0 0 -
Kiến thức y học - Sức khỏe quý hơn vàng: Phần 1
177 trang 47 0 0 -
Những bí quyết chữa bệnh từ đậu phụ
5 trang 47 0 0