Danh mục

Khảo sát đặc tính khúc xạ ở trẻ có tiền sử sinh non

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 286.56 KB      Lượt xem: 21      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghiên cứu với mục tiêu nhằm khảo sát đặc tính khúc xạ ở trẻ có tiền sử sinh non và mối tương quan giữa tật khúc xạ và cân nặng, tuổi thai lúc sinh của trẻ có tiền sử sinh non. Nghiên cứu thực hiện ở 44 trẻ trong độ tuổi từ 12 tháng – 5 tuổi có tiền sử sinh non được khám tại bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khảo sát đặc tính khúc xạ ở trẻ có tiền sử sinh non Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học KHẢO SÁT ĐẶC TÍNH KHÚC XẠ Ở TRẺ CÓ TIỀN SỬ SINH NON Mai Phan Hoàng Yến*, Nguyễn Công Kiệt* TÓM TẮT Mục đích: Khảo sát đặc tính khúc xạ ở trẻ có tiền sử sinh non và mối tương quan giữa tật khúc xạ và cân nặng, tuổi thai lúc sinh của trẻ có tiền sử sinh non. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 44 trẻ trong độ tuổi từ 12 tháng – 5 tuổi có tiền sử sinh non được khám tại bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh và được xác định khúc xạ bằng phương pháp soi bóng đồng tử có liệt điều tiết. Thiết kế nghiên cứu mô tả, cắt ngang, không có nhóm chứng. Kết quả: 44 trẻ với 88 mắt được đo khúc xạ, trong đó tỉ lệ tật khúc xạ là 19 trẻ (43,18%), chính thị là 25 trẻ (56,82%). Chủ yếu tật cận thị chiếm 36,36%, viễn thị 6,82%, loạn thị 47,73%, bất đồng khúc xạ 6,82%. Tuổi trung bình đến khám là 30,68 tháng (≈ 2,5 tuổi); cân nặng trung bình lúc sinh là 1995,45g, và tuổi thai trung bình lúc sinh la 29,25 tuần. Không tìm thấy mối tương quan giữa cân nặng, tuổi thai lúc sinh của trẻ với tật khúc xạ. Kết luận: Tật khúc xạ thường gặp ở trẻ có tiền sử sinh non, chủ yếu tật cận thị. Không tìm thấy mối tương quan giữa tật khúc xạ với cân nặng, tuổi thai lúc sinh của trẻ. Từ khóa: Tiền sử sinh non, tật khúc xạ, cận thị, soi bóng đồng tử có liệt điều tiết. ABSTRACT REFRACTIVE OUTCOME IN PREMATURE CHILDREN WITHOUT RETINOPATHY OF PREMATURITY Mai Phan Hoang Yen, Nguyen Cong Kiet * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 263 - 268 Purpose: To determine the incidence of refractive error from the ages of 12 months to 5 years in premature children without retinopathy of prematurity and also to seek a correlation between refractive error and birth weight, or gestational age. Subject and methods: In this observartional cross – sectional study, eye refraction in 44 premature children, with no ocular pathology, was measured by cycloplegic retionoscopy at the children from the ages of 12 months to 5 years. Results: Of the 44 children reviewed, 19 (43.18%) had a refractive error and 25 (56.82%) were emmetropic in both eyes. Most of the children were myopia (36.36%). Hyperopia was observed in 6.82%. Astigmatism was found in 47.73% of the children. Anisometropia occurred in 6.82% of children in this study. The mean age at examination was 2.5 years; the mean birth weight was 1995.45g and the mean gestational age at birth was 29.25 weeks. Refractive error was not correlated with birth weight or gestational age in this study. Conclusions: Significant refractive errors are quite common in the premature children without retinopathy of prematurity. Most of these children are myopia. There is no correlation between refractive error and birth weight or gestational age. Key words: Premature children without retinopathy of prematurity, refractive error, myopia, cycloplegic retinoscopy.   Bộ Môn Mắt, Đại Học Y Dược Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang Tác giả liên lạc: BS Mai Phan Hoàng Yến ĐT: 0905190500 Email:maiphanhoangyen@gmail.com Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 263 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 ĐẶT VẤN ĐỀ Vào những năm cuối thế kỷ XX, sự phát triển vượt bậc của các phương tiện chẩn đoán – can thiệp sớm và kỹ thuật hồi sức sơ sinh tốt đã giúp làm giảm tỉ lệ tử vong sơ sinh, đặc biệt đối với các trẻ sinh non. Y văn thế giới đã ghi nhận nhiều trẻ sinh non từ 23 tuần thai, cân nặng lúc sinh từ 500gr được nuôi sống. Song song với những thành công đó, những thử thách được đặt ra đối với nền y học hiện đại: các tổn thương, bệnh lý đặc trưng trên một cơ thể non nớt, chưa được phát triển hoàn thiện xuất hiện. Đối với cơ quan thị giác, đó là tổn thương bệnh lý võng mạc trẻ sinh non (ROP), tật khúc xạ, lé, tổn thương vỏ não thị giác, chứng loạn sắc, giảm thị lực(6). Tất cả đều gây hậu quả nặng nề, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sống không chỉ trên bản thân trẻ ngay cả gia đình trẻ. Đến nay, do tính chất nghiêm trọng và những di chứng nặng nề, bệnh lý võng mạc trẻ sinh non đã được đưa vào chương trình tầm soát cho trẻ sinh non ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, bước đầu mang lại hiệu quả khả quan. Bên cạnh, nguy cơ ROP, những trẻ sinh non, nhẹ cân không ROP có nguy cơ tật khúc xạ. Sự liên quan giữa tật khúc xạ và sinh non đã được thế giới biết tới từ năm 1955 qua các nghiên cứu của Fletcher và Brandon, và sau đó được nhiều tác giả khác báo cáo như Alfano (1958), Graham (1963), Verma (1994). Năm 1997, Fielder và Quinn mô tả, có ba hình thái cận thị ở trẻ sinh non: cận thị sinh lý “thoáng qua”, cận thị sinh non (MOP), cận thị thoái hóa trong ROP. Đây được xem như luận cứ khoa học đầu tiên về hình thái cận thị đặc biệt này. Sau đó,các tác giả Saunders (2002), Ton(2004), Holmstrom (2005), Larsson (2006) lần lượt công bố, bên cạnh tật cận thị thường gặp, tật viễn thị, loạn thị chiếm tỉ lệ khá cao ở nhóm trẻ có tiền sử sinh non. Tại Đông Nam Á, ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: