Danh mục

Khảo sát thực trạng tương tác thuốc tại khoa nội, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 607.26 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mục tiêu nghiên cứu của bài viết nhằm khảo sát thực trạng tương tác thuốc (TTT) và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến TTT, từ đó, xây dựng danh mục TTT cần chú ý trong lâm sàng. Phương pháp: mô tả hồi cứu trên 305 bệnh án bệnh nhân (BN) điều trị nội trú tại Khoa Nội Bệnh viện Đa Khoa Trung ương Thái Nguyên (01 - 2013 đến 6 - 2013).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khảo sát thực trạng tương tác thuốc tại khoa nội, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2015 KHẢO SÁT THỰC TRẠNG TƢƠNG TÁC THUỐC TẠI KHOA NỘI, BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƢƠNG THÁI NGUYÊN Lê Thị Hường*; Nguyễn Thị Hiền* TÓM TẮT Mục tiêu: khảo sát thực trạng tương tác thuốc (TTT) và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến TTT, từ đó, xây dựng danh mục TTT cần chú ý trong lâm sàng. Phương pháp: mô tả hồi cứu trên 305 bệnh án bệnh nhân (BN) điều trị nội trú tại Khoa Nội Bệnh viện Đa Khoa Trung ương Thái Nguyên (01 - 2013 đến 6 - 2013). t qu theo cơ sở dữ liệu Bộ Y tế (CSDL-BYT), 60,3% bệnh án có TTT, trong đó tỷ lệ tương tác có ý nghĩa lâm sàng chiếm 15%. Theo cơ sở dữ liệu Fact và Comparison (F&C) 4.0, 44,3% bệnh án có tương tác, trong đó tỷ lệ tương tác có ý nghĩa lâm sàng 34,8%. Mối liên quan giữa số lượng thuốc trong bệnh án đến khả năng xảy ra tương tác: số thuốc trung bình là 5,57 ± 1,2 thì xuất hiện 1 TTT; số thuốc trung bình là 7,37 ± 1,54 thì xuất hiện ≥ 4 tương tác. Các nhóm bệnh đa dạng nhưng phân bố không đồng đều, cao nhất nhóm bệnh tuần hoàn (suy tim, huyết áp, đau thắt ngực) (36,4%). Tỷ lệ bệnh mắc kèm khá cao (55,8%), trong đó tỷ lệ bệnh mắc kèm có TTT chiếm 61,2%. Kết luận: tỷ lệ TTT trong bệnh án điều trị nội trú tương đối cao, các tương tác có ý nghĩa lâm sàng ở mức độ nặng thường gặp trong bệnh án kê nhiều thuốc và trên BN có nhiều bệnh mắc kèm. * Từ khóa: Tương tác thuốc; Thực trạng. Survey on Drug Interaction in Internal Medicine Department of Thainguyen Medical General Central Hospital Summary Objectives: To examine the rate of drug interactions and analyze the factors affecting drug interactions. As a basis, we have built the list of drug interactions in clinical practice. Methods: A retrospective description of 305 medical records in Internal Medicine Department at Thainguyen General Center Hospital (from 01 - 2013 to 6 - 2013). Results: According to the database from Ministry of Health, 60.3% of medical records had drug interactions, including interaction rate with clinical significance of 15%. According to the database from Fact and 4.0 Comparison, the rate of drug interaction in the medical records was 44.3%, in which the interaction rate had clinical significance of 34.8%. The relationship between the amount of drug in patients and the possibility of interaction when the average number of drugs was 5.57 ± 1.2, it appeared one drug interaction, when this number reached 7.37 ± 1.54, the interaction occurred 4 or more. The group of diseases was diverse but not evenly distributed, the highest group including circulatory diseases (heart failure, hypertension, angina) accounted for 36.4%. The combined morbidity made up 55.8%, of which the morbidity associated with drug interaction was found in 61.2%. * Bệnh viện Đa khoa TW Thái Nguyên Người phản hồi (Corresponding): Lê Thị Hường (huong,vsdc@gmail.com) Ngày nhận bài: 24/11/2014; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 14/12/2014 Ngày bài báo được đăng: 27/12/2014 38 TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2015 Conclusions: The rate of drug interactions in internal medicine treatment is relatively high, the interactions of clinical significance at severe level are commonly encountered in the multi-drug prescriptions and in patients with combined diseases. * Key words: Drug interaction; Reality. ĐẶT VẤN ĐỀ Tương tác thuốc là hiện tượng xảy ra khi nhiều thuốc được sử dụng đồng thời. Sự phối hợp này làm thay đổi tác dụng hoặc độc tính của một trong những thuốc đó [1]. Thực tế cho thấy, TTT là vấn đề khá phổ biến trong thực hành lâm sàng, đặc biệt ở những người mắc đồng thời nhiều bệnh lý, được điều trị nhiều loại thuốc khác nhau. Theo công bố năm 2007, ước tính khoảng 0,6% BN nhập viện và khoảng 0,1% BN tái nhập viện với lý do gặp các tác dụng không mong muốn liên quan đến TTT [4]. Tỷ lệ các phản ứng có hại (ADR) khi kết hợp nhiều loại thuốc sẽ tăng theo cấp số nhân. Một thống kê dịch tễ học cho thấy tỷ lệ ADR là 7% ở BN dùng phối hợp 6 - 10 loại thuốc và là 40% khi dùng phối hợp 16 - 20 loại thuốc [3]. Tương tác thuốc gây phản ứng bất lợi, làm tăng chi phí điều trị, tăng các bệnh mắc kèm, thậm chí có thể đe dọa tính mạng cho BN. Vì vậy, việc phát hiện, đánh giá và quản lý TTT luôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của dược sỹ lâm sàng. Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên là bệnh viện hạng I trực thuộc Bộ Y tế, có nhiệm vụ khám chữa bệnh cho nhân dân các dân tộc miền núi ở phía Bắc. Khoa Nội có quy mô lớn, bao gồm nội tim mạch - xương khớp, nội tiêu hóa, nội hô hấp - nội tiết, số lượng BN đông với nhiều loại hình bệnh tật, do đó khi điều trị BN phải sử dụng nhiều loại thuốc phối hợp, đặc biệt với BN người cao tuổi, 39 sức đề kháng suy giảm, chức năng gan, thận giảm, nhiều loại thuốc có phạm vi điều trị hẹp, độc tính nên khi phối hợp thuốc nguy cơ xảy ra TTT cao. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu vấn đề này tại Khoa Nội, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên với mục tiêu: ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: