Danh mục

Khi sinh ra, bé không chỉ biết khóc

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 712.29 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Khóc là “ngôn ngữ” của bé khi chưa biết nói nhưng mẹ có biết, bé còn có nhiều khả năng khác mà chính mẹ cũng bất ngờ. Từ khi còn trong bụng, bé đã biết lặng yên thưởng thức âm nhạc cùng mẹ hoặc lắng nghe mẹ chuyện trò. Đến lúc lọt lòng, bé dễ dàng nhận tiếng mẹ, giọng ba hay những âm thanh quen thuộc mà bé đã nghe từ trong bụng mẹ. Điều gì đã mang đến cho bé sự kỳ diệu này? ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khi sinh ra, bé không chỉ biết khócKhi sinh ra, bé không chỉ biết khócKhóc là “ngôn ngữ” của bé khi chưa biết nói nhưng mẹ có biết, bé còncó nhiều khả năng khác mà chính mẹ cũng bất ngờ. Từ khi còn trongbụng, bé đã biết lặng yên thưởng thức âm nhạc cùng mẹ hoặc lắng nghemẹ chuyện trò. Đến lúc lọt lòng, bé dễ dàng nhận tiếng mẹ, giọng ba haynhững âm thanh quen thuộc mà bé đã nghe từ trong bụng mẹ. Điều gìđã mang đến cho bé sự kỳ diệu này?Khám phá khả năng của béMẹ có biết, ngay từ tuần thứ 18, bé có thể nghe, làm quen và cảm nhận đượcnhững âm thanh chuyển động xung quanh, nghe được giọng nói ngọt ngàocủa mẹ mình. Nếu trong bụng mẹ, bé thôi quấy đạp khi nghe mẹ hát ru thìkhi ra đời mẹ cũng có thể dỗ bé vào giấc ngủ bằng cách đó. Âm thanh mẫutử thân quen được não bộ của bé ghi nhận qua những lần bạn thủ thỉ, chuyệntrò với bé. Những kết nối đầu đời giữa âm thanh và nhận thức có được chínhlà nhờ vào sức mạnh của trí não.Những nghiên cứu khoa học đã chạm được vào sự diệu kỳ của trí não trẻ vớinhững khám phá về sự hình thành và phát triển trí não của bé từ trong bụngmẹ. Từ tuần thứ 8 của thai kỳ, mỗi phút não bộ trẻ sản sinh đến 250.000 tếbào thần kinh và những tháng cuối là giai đoạn não phát triển mạnh nhất, đểcho đến khi sinh ra mỗi trẻ đều có khoảng 100 tỷ tế bào thần kinh. Não bộtrẻ sơ sinh đạt kích thước bằng 25% não của một người trưởng thành. Chỉtrong năm đầu tiên, kích thước của não bé tăng gấp 3 lần so với lúc chào đời,tốc độ xử lý thông tin đạt được từ 0,5m/ giây đến 120m/ giây… Do vậy, bécon có khả năng học hỏi rất nhanh trong giai đoạn đầu đời.Bé học hỏi rất nhanh trong giai đoạn đầu đời khi vui chơi cũng như khi đượcgiáo dục từ ba mẹ (Ảnh được cung cấp bởi MeadJohnson)“Đầu tư” cho trí não của bé trong giai đoạn vàngVới cùng xuất phát điểm là 100 tỷ tế bào thần kinh, vậy khi lớn lên, tại saolại có bé thông minh hơn? Thực tế, có 3 yếu tố ảnh hưởng đến sự thôngminh của bé: di truyền, môi trường và dinh dưỡng. Vì vậy, bên cạnh việctiếp nhận giáo dục từ gia đình, bé rất cần có đủ dinh dưỡng để trí não được“nở hoa”.Các dinh dưỡng cho trí não gồm các chất như đạm, sắt, choline, các axit béonhư DHA & ARA. Trong đó, DHA & ARA đóng vai trò rất quan trọng vìchiếm 25% trọng lượng khô của não, giúp tăng trưởng và thúc đẩy kết nốicác tế bào thần kinh, giúp cho việc tiếp nhận, ghi nhớ và xử lý thông tin củabé đạt hiệu quả cao nhất.“Dạy” con bằng dinh dưỡng ngay từ khi bé còn trong bụng mẹ (Ảnh đượccung cấp bởi MeadJohnson)Não bé phát triển rất nhanh, từ 0 -2 tuổi đạt được 80% trọng lượng nãongười lớn và gần bằng 100% trọng lượng não người lớn khi 6 tuổi. Các kếtnối của tế bào thần kinh ngày càng chằng chịt và sự truyền đạt thông tin hiệuquả hơn nếu bé được cung cấp đủ dưỡng chất thiết yếu DHA & ARA cho sựphát triển của não bộ trong giai đoạn này. Kinh nghiệm dân gian là dạy contừ thuở còn thơ. Khoa học hiện đại cũng khẳng định điều này với lời khuyênlà mẹ nên chú trọng “dạy” con bằng dinh dưỡng trong thời điểm vàng, từnhững tháng cuối thai kỳ đến năm 6 tuổi nhằm tạo được nền tảng trí nãovững chắc cho bé, giúp bé hoạt bát, thông minh khi bước vào lớp 1.Bổ sung DHA như thế nào là đủ?Lời khuyên tốt nhất cho các bà mẹ là nên cung cấp hàm lượng DHA cho trẻtheo khuyến cáo của FAO/WHO. Theo đó, hàm lượng DHA dành các bà mẹmang thai và cho con bú là khoảng 200mg/ ngày; đối với trẻ sơ sinh (0 – 12tháng) là 17mg DHA/ 100kcal và 34mg ARA/ 100kcal; đối với trẻ nhỏ (1 –6 tuổi): từ 75mg/ ngày (tuỳ theo lứa tuổi và cân nặng của trẻ).

Tài liệu được xem nhiều: