Danh mục

Khối ngân hàng nước ngoài đóng vai trò tích cực trong việc phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 440.04 KB      Lượt xem: 27      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết Khối ngân hàng nước ngoài đóng vai trò tích cực trong việc phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam trình bày nhận diện thị phần của khối ngân hàng nước ngoài tại nền kinh tế Việt Nam; Chiến lược hoạt động của khối ngân hàng nước ngoài tại nền kinh tế Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khối ngân hàng nước ngoài đóng vai trò tích cực trong việc phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 27. KHỐI NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI ĐÓNG VAI TRÒ TÍCH CỰC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TS. Kim Quang Chiêu* Tóm tắt Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, khối ngân hàng nước ngoài chỉ chiếm khoảng 10% thị phần đầu tư vốn tín dụng trong toàn bộ ngành ngân hàng. Tuy nhiên, thế mạnh của khối ngân hàng nước ngoài là cho vay các dự án lớn, các dự án của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tài trợ xuất - nhập khẩu, thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ. Bên cạnh đó, với chuẩn mực hoạt động theo thông lệ quốc tế, khối ngân hảng nước ngoài còn góp phần thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư dự án FDI tại Việt Nam, thúc đẩy cạnh tranh và đổi mới hệ thống ngân hàng Việt Nam, thúc đẩy các hoạt động sáp nhập và mua lại (M&A) các doanh nghiệp ở nước ta. Trong quá trình Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu, rộng với cộng đồng kinh tế quốc tế và khu vực, khối ngân hàng đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng bền vững GDP của nước ta. Bài viết tập trung phân tích thực trạng này và đưa ra một số khuyến nghị. Từ khóa: Ngân hàng nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng, bền vững 1. NHẬN DIỆN THỊ PHẦN CỦA KHỐI NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Thị phần là chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện vị thế cạnh tranh trên thị trường hoạt động tín dụng và đầu tư. Để thấy rõ hơn thực trạng hoạt động kinh doanh, vị thế thị phần vốn đầu tư trong nền kinh tế và hiệu quả hoạt động kinh doanh của khối ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, có thể xem xét và phân tích một số chỉ tiêu chủ yếu của khối này so với các khối ngân hàng khác trong tổng thể các tổ chức tín dụng (TCTD) tại Việt Nam đến thời điểm gần nhất. * Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên 337 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA Cho đến nay, chúng ta chưa có số liệu cập nhật đến hết năm 2021 hay số liệu cập nhật đến hết tháng 3/2022 vì còn tùy thuộc vào kết quả tổng hợp và công bố của cơ quan chức năng. Song nếu dựa trên số liệu công bố công khai tính đến ngày 30/9/2021, thì tổng tài sản có toàn hệ thống TCTD tại nền kinh tế Việt Nam đã đạt 15,075 triệu tỷ đồng, tăng 7,53% so với cuối năm trước. Trong đó, tổng tài sản có của khối ngân hàng thương mại (NHTM) cổ phần tăng 9,07% so với cuối năm 2020, lên 6,6 triệu tỷ đồng, chiếm tới 43,79% tổng tài sản của toàn hệ thống. Tổng tài sản của khối NHTM Nhà nước (gồm AgriBank, VietinBank, Vietcombank, BIDV, Ngân hàng Xây dựng, Ngân hàng Dầu khí Toàn cầu, Ngân hàng Đại Dương) tăng 7,22% trong 9 tháng đầu năm 2021, tức là đến hết tháng 9/2021 đạt 6,2 triệu tỷ đồng, tăng 7,22% so với hết năm 2020, chiếm 41,18% tổng tài sản toàn hệ thống TCTD tại Việt Nam. Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank) có tăng trưởng cao nhất trong 9 tháng đầu năm 2021, tăng 19,35% lên hơn 52.132 tỷ đồng. Các ngân hàng nước ngoài, bao gồm cả ngân hàng liên doanh (sau đây gọi chung là ngân hàng nước ngoài) có xu hướng tăng trưởng chậm lại trong hai năm gần đây, với tổng tài sản của nhóm này chỉ tăng 3,1% trong 9 tháng đầu năm 2021, lên hơn 1,5 triệu tỷ đồng vào thời điểm hết năm 2021 (SBV, 2019 - 2021). Có thể tham khảo quy mô tổng tài sản của các khối ngân hàng tại thời điểm hết tháng 9/2021 ở Hình 1 dưới đây.  Hình 1. Tổng tài sản các nhóm ngân hàng tại thời điểm 30/9/2021 (tỷ đồng, %) Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – SBV (2019 - 2021) Nếu xem xét về quy mô vốn điều lệ của cả hệ thống TCTD tại nền kinh tế Việt Nam, thì tại thời điểm hết tháng 9/2021, tổng số vốn đạt 750.580 tỷ đồng, tăng 8,32% so với đầu năm 2021. Trong đó, vốn điều lệ của khối NHTM Nhà nước đạt 169.690 tỷ đồng, tăng 9,29%. Vốn điều lệ của khối Ngân hàng TMCP lên tới 348.481 tỷ đồng, tăng 9,88% và gấp đôi so với khối NHTM Nhà nước. Vốn điều lệ của các công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính cũng tăng mạnh từ 14,79% lên hơn 35.077 tỷ đồng. Còn khối ngân hàng nước ngoài chỉ đạt 134.758 tỷ đồng, chỉ tăng có 2,65% so với cuối năm 2020 (SBV, 2019 - 2021). 338 KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 Tham khảo diễn biến quy mô vốn điều lệ tại thời điểm hết tháng 9/2021 so với hết năm 2020 ở Hình 2 dưới đây. Hình 2. Vốn điều lệ các nhóm ngân hàng cuối tháng 9/2021 (tỷ đồng, %) Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – SBV (2019 - 2021) Phân tích về tỷ lệ an toàn vốn CAR áp dụng theo Thông tư số 41/2016/TT-NHNN (Basel II), tỷ lệ này của các NHTM Nhà nước đạt 9,17%, cao hơn mức tối thiểu 8%. Trong khi đó, các Ngân hàng TMCP áp dụng Basel II có CAR đạt 11,38% và nhóm ngân hàng nước ngoài đạt mức cao nhất, lên tới 18,94% (SBV, 2019 - 2021). Số liệu nói trên cho thấy, khối ngân hàng nước ngoài tiếp tục mở rộng hoạt động kinh doanh tại nền kinh tế Việt Nam, nhưng với chiến lược thận trọng, an toàn, hiệu quả và chiếm tỷ lệ thị phần khiêm tốn trong hệ thống TCTD tại nước ta hiện nay. Tổng tài sản của khối ngân hàng nước ngoài, trong đó chủ yếu là vốn cho vay và đầu tư, chỉ chiếm khoảng 10% trong toàn bộ hệ thống ngân hàng tại Việt Nam, đạt trên 1,5 triệu tỷ đồng. Dư nợ cho vay và đầu tư các dự án các doanh nghiệp tại nền kinh tế Việt ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: