Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính ở một số nước Châu Á năm 1997 - 1999 gây chấn động về kinh tế , xã hội ở mỗi nước , ảnh hưởng đến các nước khác trong khu vực . Trước đó giới khoa học kinh tế và chính trị ở nhiều nước và chuyên gia kinh tế ở nhiều tổ chức quốc tế vẫn coi sự phát triển kinh tế với tốc đọ cao từ 7-9%/năm , kéo dài hàng chục năm ở TL, Indo , Malay , Hàn Quốc là sự kỳ diệu của Châu Á ....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khủng hoảng kinh tế tài chính Châu Á 97
Khủng hoảng kinh tế tài chính Châu Á 97-99
Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính ở một số nước Châu Á năm 1997-
1999 gây chấn động về kinh tế , xã hội ở mỗi nước , ảnh hưởng đến các
nước khác trong khu vực . Trước đó giới khoa học kinh tế và chính trị ở
nhiều nước và chuyên gia kinh tế ở nhiều tổ chức quốc tế vẫn coi sự phát
triển kinh tế với tốc đọ cao từ 7-9%/năm , kéo dài hàng chục năm ở TL ,
Indo , Malay , Hàn Quốc là sự kỳ diệu của Châu Á .
Đến đàu năm 1997 không có dự báo , cảnh báo điều sẽ xảy ra sau sáu
tháng và kéo dài suốt 2 năm : đồng baht , rupiah, đồng ringgit, đồng won bị
phá giá với tốc đọ chưa từng có , hàng chục ngàn DN , hàng trăm NH ,
CTTC bị phá sản , đình chỉ hoạt đọng, sáp nhập , hàng triệu lao động bị
thất nghiệp , ở TL , Indo , Phillip , HQ phải bầu lại thủ tướng hay tổng
thống mới . Tăng trưởng kinh tế từ 7-8%/năm trở thành âm 5-13%.
Một chấn động như vậy , một quả bom kinh tế nổ ra ở một loạt nước .
Câu hỏi đặt ra là tại sao xảy ra khủng hoảng dữ dội như vậy và tại sao nó
lại có thể xảy ra ở những nước đó mà không ở nước khác ? Ta sẽ tập
trung phân tích vấn đề này từ quốc gia đầu tiên xảy ra khủng hoảng đó là
Thái Lan
I. Nguyên nhân :
1. Tình hình kinh tế TL trước khủng hoảng .
• GDP tăng cao liên tục , xuất khẩu phát triển :
+TL bắt đàu thời kì CNH đất nước từ 1961. tốc độ tăng trưởng GDP
trong thập niên 60 khoảng 8%/năm , trong thập niên 70 khoảng
7%/năm , trong thập niên 80 khoảng 8%/năm . Tổng sản phẩm nội địa
theo đàu người tăng từ mức 440USD năm 1955 lên 3012 USD năm
1996.
+Nông nghiệp chiếm tỉ trọng 39% trong nền kinh tế năm 1961 giảm
xuống còn 26,7% năm 1976 và chỉ còn 10,4% năm 1996 .
+Thái Lan đã thực hiện 1 chiến lược phát triển dựa vào XK từ thập
niên 80 . Năm 1986-1990 tốc đọ tăng trưởng XK BQ là 28%/năm. Năm
1992và 1993 khoảng 13%/năm . Năm 1994 và 1995 khoảng 20%/năm .
Năm 1996 , tăng trưởng XK hàng hóa và dịch vụ chỉ còn 3,4% so với
năm 1995 .
+Giá trị XK theo đầu người đạt 630USD/người năm 1991 , đã tăng lên
1177USD/người năm 1996 .
Như vậy nhìn vào mức độ tăng trưởng GDP của TL suốt hơn
3 thập kỉ từ 1961-1996 ta thấy rất đấng yên tâm .
Tuy nhiên , chỉ tiêu GDP mới chỉ phản ánh đầu ra của nền
kinh tế mà chưa đề cập đến đầu vào . Đầu vào chính là đầu
tư . Trong thời kì 91-96 , đầu tư của TL rất cao , hàng năm
chiếm 40% GDP . Tăng trưởng cao mà chi phí tăng trưởng
thấp thì mưois bền vững , dựa trên hiệu quả kinh tế cao từ
sản xuất kinh doanh . Nhưng , bình quân 91-96 , hệ số ICOR
của nền kinh tế TL 5,22 . Tức là đầu tư 5,22 baht thì GDP
mới tăng được 1 baht .
• Các DN kinh doanh ngày càng kém hiệu quả
+ Tăng trưởng GDP ở mức cao kéo dài nhiều thập kỉ , công với LS cho
vay trong nước cao ( BQ 16,3%/năm , trong khi ở mỹ là 7,6 ) và TG gối
đoái gần như cố định đã tạo nên môi trường đàu tư KD hấp dẫn cho
các NDT nước ngoài , đặc biệt là đầu tư TC , cho vay ngắn hạn và tín
dụng thương mại .
Như vậy các DN trong nước ,nếu vay vốn trực tiếp từ các công ty
nước ngoài như Mỹ thì chỉ chịu ls khoảng ½ ls cho vay trong nước .
Nếu các DN tận dụng khả năng vay vốn nước ngoài không quan tâm
thực sự đến hiệu quả sử dụng vốn vay thì hiệu quả kinh tế sẽ giảm ,
dù tổng giá trị sản lượng có thể tăng .
Đặc biệt hơn nữa , ở TL giai đoạn 91-96 , đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào TL chiếm tỉ trọng rất nhỏ so với đầu tư gián tiếp và sử dụng vốn
vay NH của nước ngoài . Tổng đàu tư trực tiếp thời kì này là 11,701 tỉ
USD , tổng đầu tư trực tiếp của TL ra nước ngoài là 2,857 tỉ USD , do
vậy tổng đầu tư trực tiếp thuần là 8,844 tỉ USD . Tronmg khi đó tổng
đầu tư TC thuần ( CP , TP ) là 16,4 tỉ USD . Như vậy trong tổng số
vốn nước ngoài thuần đã đổ vào TL thời kì 91-96 là 85,293 tỉ USD thì
đầu tư trực tiếp chỉ chiếm 10,36% ( 8,844 tỉ USD ) , đầu tư gián tiếp
chiếm 19,23% (16,404 tỉ USD ) và tín dụng ngắn hạn chiếm 70,4%
( 60,045 tỉ USD ) .
Việc sử dụng đến gần 90% nguồn vốn nước ngoài ở dạng đầu tư TC
và tín dụng ngắn hạn sẽ tạo áp lực tài chính rất lớn lên các công ty , vì
phải trả nợ thường xuyên và bằng ngoại tệ ( với tín dụng ngắn hạn ) .
Hậu quả là nếu DN kinh doanh không tốt thì hiệu quả SXKD của các
cty sẽ thấp .
Thế nhưng , ROA của các DN BQ đã giảm tưf 8%/năm năm 1991
xuống chỉ còn 1%/năm năm 1996 . trong 1 nền kinh tế mà ls cho vay là
16,3%/năm còn hiệu quả KD của DN là 1%/năm , rõ rang là đang tích
lũy nguy cơ khủng hoảng .
• Các NH kinh doanh ngày càng kém hiệu quả
Trước nhu cầu vốn của các DN và do có phần buông lỏng vai trò giám
sát hiệu quả KD của các doanh nghiệp đi vay nên các NH và CTy TC
của TL đã rất tích cực vay nợ nước ngoài để tài trợ cho DN trong nước
.
Tổng nợ nước ngoài so với tổng tài sản nước ngoài mà hệ thống ngân
hàng có tăng từ 171% (1991) lên 694% (1996). Đồng thời ROA của hệ
thống NH Thái Lan chỉ còn 0,99%/năm
Tích lũy nguy cơ khủng hoảng “ phá sản Ngân hàng “ .
• Quốc gia tiến đến bờ vực mất khả năng thanh toán
Trong suốt các năm 91-96 , cán cân TM của TL luôn bị thâm hụt , tổng
cộng là 35,26 tỉ USD . Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 1996 tới 14,7 tỉ
USD . Một lí do của tình trạng này là do XK bị kìm hãm , NK được
khuyến khich do tỉ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định
(25baht/USD) , lạm phát trong nước cao hơn so với ở Mỹ ( 5% so với
3%) . , đồng baht bị định giá cao hơn so với đồng USD .
Để bù đắp thâm hụt TM và để có vốn đầu tư BQ 40%GDP mỗi năm
,con đường không tránh khỏi là vay tiền nước ngoài ( từ các NH , các
DN , NDT TC , chính phủ các nước ) . Vì vậy nợ nước ngoài của TL
ko ngừng tăng , từ 35,99 tỉ USD năm 1991 lên 89 tỉ USD năm 1996 ,
gấp 2,47 lần trong vòng 5 năm , và bằng 54% GDP Nợ ngắn hạn
chiếm : 67% tổng nợ nước ngoài (1995),51% tổng nợ nước ngoài
(1996). Nợ ngắn hạn năm 1995 và 1996 ...