Danh mục

Kinh nghiệm phát triển công nghệ trong một số ngành công nghiệp hỗ trợ của Thái Lan và bài học cho Việt Nam

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 192.41 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết này đưa ra những khuyến nghị về hoạch định và tổ chức thực thi chính sách nhằm phát triển công nghệ, từng bước nâng cao năng lực nội sinh công nghệ trong ngành CNHT, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kinh nghiệm phát triển công nghệ trong một số ngành công nghiệp hỗ trợ của Thái Lan và bài học cho Việt NamKinh nghiệm phát triển công nghệ trong một số ngành công nghiệp hỗ trợ…60KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆTRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢCỦA THÁI LAN VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAMTS. Nguyễn Hữu XuyênTrường Đại học Kinh tế Quốc dânTS. Nguyễn Đình BìnhVăn phòng Hội đồng Chính sách Khoa học và Công nghệ Quốc giaTóm tắt:Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) phát triển sẽ giảm thiểu được việc nhập khẩu các nguyên vậtliệu, linh kiện cho các ngành lắp ráp trong nước, là tiền đề để trở thành một bộ phận trongchuỗi sản xuất toàn cầu. Phát triển công nghệ trong ngành CNHT sẽ từng bước cải thiệnđược chất lượng sản phẩm, nâng cao được năng lực nội sinh về công nghệ, tiến tới cảitiến, làm chủ và sáng tạo ra công nghệ. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong điều kiệnhiện nay của Việt Nam khi mà trình độ công nghệ trong ngành CNHT còn hạn chế. Trêncơ sở tìm hiểu kinh nghiệm của Thái Lan trong việc phát triển công nghệ ngành CNHT,bài viết đưa ra những khuyến nghị về hoạch định và tổ chức thực thi chính sách nhằm pháttriển công nghệ, từng bước nâng cao năng lực nội sinh công nghệ trong ngành CNHT, gópphần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội.Từ khóa: Công nghiệp hỗ trợ; Phát triển công nghệ.Mã số: 140403011. Khái quát về công nghiệp hỗ trợ và phát triển công nghệ trongngành công nghiệp hỗ trợCông nghiệp hỗ trợ là khái niệm được hiểu khác nhau ở các quốc gia khácnhau:Tại Hoa Kỳ, CNHT bao gồm các ngành cung cấp những quy trình để sảnxuất và hình thành sản phẩm trước khi chúng được đưa đến các ngành sảnxuất công nghiệp cuối cùng; chúng bao gồm các lĩnh vực như thiết bị làmnóng công nghiệp, xử lý nhiệt, rèn, hàn, luyện kim, các vật liệu dạng hạt, sứcao cấp và các sản phẩm các bon [13].Tại Nhật Bản, CNHT được hiểu là nhóm các hoạt động công nghiệp cungứng các đầu vào trung gian (không bao gồm nguyên vật liệu thô và sảnphẩm hoàn chỉnh) cho các ngành công nghiệp hạ nguồn; chúng bao gồmcác lĩnh vực như gia công đúc, dập, rèn, hàn, mạ, gia công cơ khí, khuônmẫu, xử lý nhiệt, các phụ tùng linh kiện như kim loại, nhựa, cao su, điện,điện tử [5].JSTPM Tập 3, Số 1, 201461Ở một số nước Châu Âu, CNHT thường được hiểu là các nhà cung ứng, nhàthầu phụ hay thuê khoán.Tại Thái Lan CNHT được hiểu là các ngành công nghiệp cung cấp linhkiện, phụ kiện, máy móc, dịch vụ đóng gói và dịch vụ kiểm tra cho cácngành công nghiệp cơ bản (có nghĩa là các ngành cơ khí, máy móc, linhkiện cho ô tô, điện và điện tử là những ngành CNHT quan trọng) [3]; nóbao gồm các chuyên ngành sản xuất cụ thể như chế tạo khuôn, gia côngđúc, gia công đồ gá, đột dập, chế tạo dụng cụ mài, xử lý bề mặt,...Công nghiệp hỗ trợ được nhìn nhận theo các quan điểm cá nhân, sự khácnhau tùy thuộc vào mỗi lĩnh vực. Cụ thể: CNHT là công nghiệp sản xuất racác linh kiện, phụ tùng, sản phẩm trung gian đóng vai trò là đầu vào (inputs)và lắp ráp chúng để trở thành sản phẩm cuối cùng [4]. Theo Trần Văn Thọ(2005), CNHT chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợcho việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể là những linh kiện, phụ liệu,phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm; đồng thời chúng cóthể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế [7].Tuy nhiên, nếu xét trên phương diện công nghệ, thì CNHT là công nghiệptạo ra các yếu tố đầu vào phục vụ cho công nghiệp chế tạo; khi đó, bất cứngành công nghiệp chế tạo nào cũng có thể gắn liền với ngành CNHT. Mặtkhác, việc tạo ra máy móc, thiết bị, phương tiện, dụng cụ, công cụ phục vụcho sản xuất công nghiệp chế tạo sẽ không thuộc phạm vi điều chỉnh củaCNHT; chúng không được coi là yếu tố đầu vào mà là các yếu tố thuộc vềcông nghệ [8]. Có quan điểm cho rằng, CNHT là toàn bộ việc tạo ra nhữnglinh phụ kiện tham gia vào việc hình thành các sản phẩm hoàn thiện chongười tiêu dùng; sản phẩm CNHT chủ yếu bao gồm một số lĩnh vực nhưkim loại, nhựa và cao su, điện và điện tử. Các doanh nghiệp sản xuất CNHThầu hết có quy mô nhỏ và vừa, đòi hỏi trình độ công nghệ và quản lý cao,điều kiện hợp đồng chặt chẽ và tương đối phụ thuộc lẫn nhau [6].Thuật ngữ “công nghiệp hỗ trợ” bắt đầu được nghiên cứu ở Việt Nam từnhững năm 2000 đến nay. Thuật ngữ này mới chỉ được nhắc đến chính thứctrong Quyết định số 34/2007/QĐ-BCN của Bộ Công nghiệp (nay là BộCông Thương) về phê duyệt “Quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2010,tầm nhìn đến năm 2020”; trong Quyết định này CNHT bao gồm các nhómngành như dệt may, da giày, điện tử tin học, sản xuất và lắp ráp ô tô, cơ khíchế tạo. Tiếp đến, Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chínhphủ về “Chính sách phát triển một số ngành CNHT”; theo đó, “CNHT là cácngành công nghiệp sản xuất vật liệu, phụ tùng linh kiện, phụ kiện, bán thànhphẩm để cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp các sản phẩmhoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng”. Mặc dù còn nhiềuquan ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: