Kinh tế biển Việt Nam trong thời kì đổi mới và hội nhập
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 116.54 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết này giới thiệu khái quát về tiềm năng, lịch sử khai thác và hiện trạng phát triển các ngành kinh tế biển Việt Nam để từ đó đưa ra những định hướng chung nhất cho sự phát triển bền vững trong thời gian sắp tới. Mời các bạn cùng tham khảo.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kinh tế biển Việt Nam trong thời kì đổi mới và hội nhập JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2015-00046 Social Sci., 2015, Vol. 60, No. 5, pp. 145-153 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP Trần Thị Hồng Nhung Khoa Việt Nam học, Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Với một vùng biển rộng lớn và giàu tài nguyên, lại có dân cư tập trung đông đúc khu vực ven biển, Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển nền kinh tế biển. Trên cơ sở đó, trong những năm gần đây, kinh tế biển của nước ta đã có mức tăng trưởng khá trên hầu hết mọi lĩnh vực. Những chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế quốc gia càng tiếp thêm sức mạnh cho sự phát triển các ngành kinh tế biển. Kinh tế biển thực sự trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam trong thời kì đổi mới và hội nhập. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế biển Việt Nam không phải không có những trở ngại. Bài viết này giới thiệu khái quát về tiềm năng, lịch sử khai thác và hiện trạng phát triển các ngành kinh tế biển Việt Nam để từ đó đưa ra những định hướng chung nhất cho sự phát triển bền vững trong thời gian sắp tới. Từ khóa: Kinh tế biển, tiềm năng, lịch sử khai thác, hiện trạng phát triển, thời kì đổi mới và hội nhập. 1. Mở đầu Với vị thế là một quốc gia biển, hàng ngàn năm nay biển đã gắn bó với con người và nền kinh tế Việt Nam. Đặc biệt trong giai đoạn nền kinh tế Việt Nam hội nhập và đổi mới, vai trò của biển và kinh tế biển càng trở nên quan trọng. Đề cập đến vai trò kinh tế của đại dương và biển, các nhà kinh tế đều thống nhất nhận định “Đại dương và biển là nơi dự trữ cuối cùng của loài người về lương thực, thực phẩm và các nguồn nguyên nhiên liệu ở thế kỉ XXI và tiếp tới” [4]. Vì vậy, việc phát triển nền kinh tế hướng ra biển là một việc làm cần thiết của Việt Nam để thúc đẩy nền kinh tế quốc gia tăng trưởng. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Các điều kiện để phát triển kinh tế biển Việt Nam 2.1.1. Khái quát về Biển Đông và vùng ven biển Việt Nam Vùng biển Việt Nam là một bộ phận của Biển Đông, một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3,5 triệu km2 , trải rộng từ vĩ độ 3◦ lên đến vĩ độ 26◦ Bắc và từ kinh độ 100◦ đến 121◦ Đông [3]. Biển Đông có vị trí địa kinh tế, chính trị đặc biệt quan trọng và từ lâu đã là nhân tố không thể thiếu trong Chiến lược phát triển không chỉ của các nước xung quanh Biển Đông mà còn của một số cường quốc hàng hải khác trên thế giới. Ngày nhận bài: 15/10/2014 Ngày nhận đăng: 20/5/2015 Liên hệ: Trần Thị Hồng Nhung, e-mail: trannhungvnh@gmail.com 145 Trần Thị Hồng Nhung Việt Nam nằm trong số 10 nước trên thế giới có chỉ số cao nhất về chiều dài bờ biển so với diện tích lãnh thổ (không kể một số đảo). Tính bình quân cứ 100 km2 đất liền nước ta có 1 km bờ biển, cao gấp sáu lần chỉ số trung bình của thế giới, đồng thời bờ biển lại mở ra cả ba hướng đông, nam và tây nam, rất thuận lợi cho việc đi ra mọi nẻo đường đại dương. Vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam rộng hơn một triệu km2 , lớn hơn gấp 3 lần phần đất liền với hơn 3.000 hòn đảo mà nổi tiếng là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nước ta có 148 huyện thuộc các vùng biển, đảo và ven biển (102 huyện ven biển, 34 quận, thị xã, thành phố ven biển trực thuộc tỉnh và 12 huyện đảo) thuộc 28 tỉnh (25 tỉnh và ba thành phố trực thuộc Trung ương); diện tích tự nhiên hơn 65.000km2 , chiếm khoảng 20% diện tích cả nước dân số vùng biển, đảo của nước ta là 30,6 triệu người (theo Tổng cục thống kê, 2012), bằng 34,6% dân số cả nước. 2.1.2. Tài nguyên biển Theo kết quả thăm dò khảo sát, tiềm năng tài nguyên biển của nước ta tuy không được coi là vào loại giàu có của thế giới, nhưng cũng rất đáng kể và có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với phát triển đất nước. - Khoáng sản biển Trong số các nguồn khoáng sản biển, trước tiên phải kể đến dầu khí. Trên vùng biển Việt Nam, có tới 500.000 km2 nằm trong vùng triển vọng có dầu khí. Trữ lượng dầu khí ngoài khơi Việt Nam có thể chiếm 25% trữ lượng dầu dưới đáy biển Đông. Trữ lượng dầu khí dự báo của toàn thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỉ tấn quy dầu. Có thể khai thác từ 30-40 nghìn thùng/ngày, khoảng 20 triệu tấn/năm [6]. Mặc dù so với nhiều nước, nguồn tài nguyên dầu khí chưa phải là thật lớn, song đối với nước ta nó có vị trí rất quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Bên cạnh dầu, Việt Nam còn có khí đốt với trữ lượng khoảng 3 nghìn tỉ m3 /năm. Ngoài dầu và khí, dưới đáy biển nước ta còn có nhiều khoáng sản quý như: thiếc, ti-tan, đi-ri-con, thạch anh, nhôm, sắt, măng-gan, đồng ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kinh tế biển Việt Nam trong thời kì đổi mới và hội nhập JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2015-00046 Social Sci., 2015, Vol. 60, No. 5, pp. 145-153 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP Trần Thị Hồng Nhung Khoa Việt Nam học, Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Với một vùng biển rộng lớn và giàu tài nguyên, lại có dân cư tập trung đông đúc khu vực ven biển, Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển nền kinh tế biển. Trên cơ sở đó, trong những năm gần đây, kinh tế biển của nước ta đã có mức tăng trưởng khá trên hầu hết mọi lĩnh vực. Những chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế quốc gia càng tiếp thêm sức mạnh cho sự phát triển các ngành kinh tế biển. Kinh tế biển thực sự trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam trong thời kì đổi mới và hội nhập. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế biển Việt Nam không phải không có những trở ngại. Bài viết này giới thiệu khái quát về tiềm năng, lịch sử khai thác và hiện trạng phát triển các ngành kinh tế biển Việt Nam để từ đó đưa ra những định hướng chung nhất cho sự phát triển bền vững trong thời gian sắp tới. Từ khóa: Kinh tế biển, tiềm năng, lịch sử khai thác, hiện trạng phát triển, thời kì đổi mới và hội nhập. 1. Mở đầu Với vị thế là một quốc gia biển, hàng ngàn năm nay biển đã gắn bó với con người và nền kinh tế Việt Nam. Đặc biệt trong giai đoạn nền kinh tế Việt Nam hội nhập và đổi mới, vai trò của biển và kinh tế biển càng trở nên quan trọng. Đề cập đến vai trò kinh tế của đại dương và biển, các nhà kinh tế đều thống nhất nhận định “Đại dương và biển là nơi dự trữ cuối cùng của loài người về lương thực, thực phẩm và các nguồn nguyên nhiên liệu ở thế kỉ XXI và tiếp tới” [4]. Vì vậy, việc phát triển nền kinh tế hướng ra biển là một việc làm cần thiết của Việt Nam để thúc đẩy nền kinh tế quốc gia tăng trưởng. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Các điều kiện để phát triển kinh tế biển Việt Nam 2.1.1. Khái quát về Biển Đông và vùng ven biển Việt Nam Vùng biển Việt Nam là một bộ phận của Biển Đông, một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3,5 triệu km2 , trải rộng từ vĩ độ 3◦ lên đến vĩ độ 26◦ Bắc và từ kinh độ 100◦ đến 121◦ Đông [3]. Biển Đông có vị trí địa kinh tế, chính trị đặc biệt quan trọng và từ lâu đã là nhân tố không thể thiếu trong Chiến lược phát triển không chỉ của các nước xung quanh Biển Đông mà còn của một số cường quốc hàng hải khác trên thế giới. Ngày nhận bài: 15/10/2014 Ngày nhận đăng: 20/5/2015 Liên hệ: Trần Thị Hồng Nhung, e-mail: trannhungvnh@gmail.com 145 Trần Thị Hồng Nhung Việt Nam nằm trong số 10 nước trên thế giới có chỉ số cao nhất về chiều dài bờ biển so với diện tích lãnh thổ (không kể một số đảo). Tính bình quân cứ 100 km2 đất liền nước ta có 1 km bờ biển, cao gấp sáu lần chỉ số trung bình của thế giới, đồng thời bờ biển lại mở ra cả ba hướng đông, nam và tây nam, rất thuận lợi cho việc đi ra mọi nẻo đường đại dương. Vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam rộng hơn một triệu km2 , lớn hơn gấp 3 lần phần đất liền với hơn 3.000 hòn đảo mà nổi tiếng là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nước ta có 148 huyện thuộc các vùng biển, đảo và ven biển (102 huyện ven biển, 34 quận, thị xã, thành phố ven biển trực thuộc tỉnh và 12 huyện đảo) thuộc 28 tỉnh (25 tỉnh và ba thành phố trực thuộc Trung ương); diện tích tự nhiên hơn 65.000km2 , chiếm khoảng 20% diện tích cả nước dân số vùng biển, đảo của nước ta là 30,6 triệu người (theo Tổng cục thống kê, 2012), bằng 34,6% dân số cả nước. 2.1.2. Tài nguyên biển Theo kết quả thăm dò khảo sát, tiềm năng tài nguyên biển của nước ta tuy không được coi là vào loại giàu có của thế giới, nhưng cũng rất đáng kể và có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với phát triển đất nước. - Khoáng sản biển Trong số các nguồn khoáng sản biển, trước tiên phải kể đến dầu khí. Trên vùng biển Việt Nam, có tới 500.000 km2 nằm trong vùng triển vọng có dầu khí. Trữ lượng dầu khí ngoài khơi Việt Nam có thể chiếm 25% trữ lượng dầu dưới đáy biển Đông. Trữ lượng dầu khí dự báo của toàn thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỉ tấn quy dầu. Có thể khai thác từ 30-40 nghìn thùng/ngày, khoảng 20 triệu tấn/năm [6]. Mặc dù so với nhiều nước, nguồn tài nguyên dầu khí chưa phải là thật lớn, song đối với nước ta nó có vị trí rất quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Bên cạnh dầu, Việt Nam còn có khí đốt với trữ lượng khoảng 3 nghìn tỉ m3 /năm. Ngoài dầu và khí, dưới đáy biển nước ta còn có nhiều khoáng sản quý như: thiếc, ti-tan, đi-ri-con, thạch anh, nhôm, sắt, măng-gan, đồng ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Kinh tế biển Lịch sử khai thác Hiện trạng phát triển Thời kì đổi mới và hội nhập Phát triển kinh tế biển Phát triển bền vữngGợi ý tài liệu liên quan:
-
342 trang 343 0 0
-
Phát triển du lịch bền vững tại Hòa Bình: Vai trò của các bên liên quan
10 trang 322 0 0 -
Phát triển bền vững của doanh nghiệp Việt Nam thông qua bộ chỉ số doanh nghiệp bền vững (CSI)
8 trang 316 0 0 -
95 trang 268 1 0
-
Tăng trưởng xanh ở Việt Nam qua các chỉ số đo lường định lượng
11 trang 245 0 0 -
Phát triển bền vững vùng Tây Nguyên: Từ lý luận đến thực tiễn
6 trang 207 0 0 -
9 trang 206 0 0
-
Giáo trình Tài nguyên rừng - Nguyễn Xuân Cự, Đỗ Đình Sâm
157 trang 181 0 0 -
Đổi mới tư duy về phát triển bền vững: Nhìn từ hai cách tiếp cận phát triển bền vững
5 trang 176 0 0 -
6 trang 169 0 0