Thông tin tài liệu:
Thuật ngữ bơm tinh trùng vào buồng tử cung (intrauterine insemination – IUI) được dùng để chỉ kỹ thuật thụ tinh nhân tạo bằng bơm tinh trùng trực tiếp vào buồng tử cung nhằm giảm một số tác dụng có hại lên tinh trùng như pH acid của âm đạo, chất nhầy cổ tử cung (trong trường hợp chất nhầy có tác dụng có hại cho tinh trùng). IUI còn một lợi điểm lớn là mang số lượng tinh trùng có độ di động tốt, khả năng thụ tinh cao, cô đặc trong một thể tích nhỏ đến được...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
KỸ THUẬT BƠM TINH TRÙNG VÀO BUỒNG TỬ CUNG
KỸ THUẬT BƠM TINH TRÙNG VÀO
BUỒNG TỬ CUNG
ĐẠI CƯƠNG
Thuật ngữ bơm tinh trùng vào buồng tử cung (intrauterine insemination – IUI)
được dùng để chỉ kỹ thuật thụ tinh nhân tạo bằng bơm tinh trùng trực tiếp vào
buồng tử cung nhằm giảm một số tác dụng có hại lên tinh trùng như pH acid của
âm đạo, chất nhầy cổ tử cung (trong tr ường hợp chất nhầy có tác dụng có hại cho
tinh trùng). IUI còn một lợi điểm lớn là mang số lượng tinh trùng có độ di động
tốt, khả năng thụ tinh cao, cô đặc trong một thể tích nhỏ đến đ ược gần trứng hơn
xuang quanh thời điểm trứng rụng.
Kỹ thuật bơm tinh trùng đã chuẩn bị vào buồng tử cung là kỹ thuật phổ biến và
được chấp nhận ở hầu hết các trung tâm trên thế giới. Kỹ thuật này giúp ta xác
định được một các tương đối chính xác số lượng tinh trùng đặt vào buồng tử cung.
Cũng với bước tiến này, các nhược điểm của các kỹ thuật bơm tinh dịch cổ điển
được khắc phục, làm tăng đáng kể tỉ lệ thành công và biến IUI thành một kỹ thuật
điều trị an toàn với hiệu quả cao. Hiện nay, khi nói đến đến thụ tinh nhân tạo,
người ta thường hiểu là kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử cung với tinh trùng
đã được chuẩn bị (lọc rửa).
Khả năng sống và thời gian sống của tinh trùng trong đường sinh dục nữ đóng vai
trò quan trọng vào tỉ lệ thành công. Chất lượng tinh trùng trước chuẩn bị và kỹ
thuật chuẩn bị tinh trùng ảnh hưởng rất lớn lên khả năng và thời gian sống của tinh
trùng cũng như khả năng thụ tinh của tinh trùng. Nên cô đặc tinh trùng trong một
thể tích nhỏ để bơm vào buồng tử cung. Thể tích bơm vào buồng tử cung bình
thường không vượt quá 0,3ml. Nếu lượng dịch bơm vào quá nhiều sẽ chảy trở ra
ngoài, đồng thời dễ kích thích tử cung co bóp.
Kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử cung phải được thực hiện đảm bảo vô trùng
để tránh gây viêm nhiễm đường sinh dục nữ. Kỹ thuật phải được thực hiện thật
nhẹ nhàng, tránh tổn thương vì các phản ứng xảy ra khi các mô bị tổn th ương sẽ
ảnh hưởng xấu đến chất lượng tinh trùng và ngăn cản sự thụ tinh. Do đo, chúng ta
nên sử dụng các loại catheter chuyên dụng cho IUI mềm và có đầu tù để đưa tinh
trùng vào buồng tử cung để giảm thiểu tổn thương.
Từ khi các kỹ thuật chuẩn bị tinh trùng như sử dụng thang nồng độ, swim-up phát
triển, việc sử dụng tinh trùng đã chuẩn bị và cô đặc đã trở thành chuẩn mực trong
kỹ thuật IUI. Kỹ thuật này hiện tại trở thành kỹ thuật điều trị hiếm muộn phổ biến
nhất và hiệu quả nhất cho những tr ường hợp vòi trứng còn hoạt động bình thường.
Việc sử dụng tinh trùng qua lọc rửa trong kỹ thuật IUI đã làm tăng tỉ lệ thành công
và giảm hẳn nhiều tai biến có thể xảy ra khi bơm tinh dịch tươi như đau, co thắt tử
cung, nhiễm trùng, sốc phản vệ … IUI hiện đang đ ược đánh giá là kỹ thuật điều trị
hiếm muộn phổ biến và hiệu quả nhất.
SƠ LƯỢC VỀ PHÁC ĐỒ THỰC HIỆN IUI
IUI có thể áp dụng cho các chu kỳ tự nhiên hoặc có kích thích buồng trứng. Nhiều
phác đồ kích thích buồng trứng đã được sử dụng phối hợp với IUI như:
Clomiphene citrate (CC) đơn thuần hay phối hợp với gonadotrophins
(FSH/hMG)
Thuốc ức chế men thơm hóa (AI) đơn thuần hay phối hợp với
gonadotrophins (FSH/hMG)
Gonadotrophins (FSH/hMG) đơn thuần
Đồng vận GnRH phối hợp với gonadotrophins (FSH/hMG)
Các phác đồ trên thường được phối hợp với hCG để kích thích giai đoạn phát triển
tiếp theo của noãn và gây rụng trứng. Ở các chu kỳ có kích thích buồng trứng, nếu
cho hCG vào thời điểm nang lớn nhất đạt khoảng 18-20mm, rụng trứng ước tính
xảy ra khoảng 34-40 giờ sau.
Mục đích phối hợp kích thích buồng trứng với IUI là nhằm gia tăng số noãn phát
triển và có khả năng thụ tinh, qua đó làm tăng tỉ lệ có trứng thụ tinh và phôi làm tổ
trong chu kỳ điều trị. Kích thích buồng trứng còn làm tăng tổng hợp các hormone
steroid, có khả năng làm tăng khả năng thụ tinh và làm tổ của phôi. Khi phối hợp
IUI với kích thích buồng trứng cần cân nhắc giữa lợi ích là tăng khả năng có thai
và những yếu tố bất lợi như chi phí điều trị tăng, nguy cơ quá kích buồng trứng và
nguy cơ đa thai. Tuy nhiên, do hiệu quả làm tăng đáng kể tỉ lệ có thai so với chu
kỳ tự nhiên, nên hiện nay việc phối hợp với kích thích buồng trứng đã trở thành
chuẩn mực trong kỹ thuật IUI.
Kỹ thuật chuẩn bị tinh trùng lý tưởng là kỹ thuật có thể chọn được tối đa số tinh
trùng di động, hình dạng bình thường, được cô đặc trong một thể tích nhỏ môi
trường cấy sinh lý, không c òn tinh dịch, bạch cầu và vi trùng. Mặc dù không có
một ngưỡng tuyệt đối nào về số tinh trùng tối thiểu trong mẫu bơm để có thể có
thai, người ta thấy rằng hầu hết trường hợp có thai đều có tổng số tinh trùng di
động trong mẫu bơm lớn hơn 1-2 triệu. Độ di động của tinh trùng và tỉ lệ tinh
trùng có hình dạng bình thường là những yếu tố tiên lượng quan trọng nhất. Có
nhiều phương pháp chuẩn bị tinh trùng đã được giới thiệu, mỗi phương pháp có ưu
và nh ...