Các giống lúa cực sớm (dưới 90 ngày): Các giống lúa có thời gian sinh trưởng dưới 90 ngày được xếp vào nhóm cực sớm, có ký hiệu OMCS. Đây là bộ giống đáp ứng được yêu cầu vừa là giải pháp tình thế, giảm độ rủi ro do lũ ở ĐBSCL, vừa là giải pháp lâu dài, vì ta chủ trương sống chung với lũ, né mặn vụ Đông Xuân, để tăng vụ, né hạn, gió nóng ở miền Trung. Giống OMCS 95-5 (Giống quốc gia được đưa vào sản xuất, đặc biệt vùng cần né lũ) Giống OMCS95-5...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kỹ thuật canh tác các giống lúa cực sớmKỹ thuật canh tác các giống lúa cực sớmCác giống lúa cực sớm (dưới 90 ngày): Các giống lúa có thời gian sinhtrưởng dưới 90 ngày được xếp vào nhóm cực sớm, có ký hiệu OMCS. Đâylà bộ giống đáp ứng được yêu cầu vừa là giải pháp tình thế, giảm độ rủi rodo lũ ở ĐBSCL, vừa là giải pháp lâu dài, vì ta chủ trương sống chung với lũ,né mặn vụ Đông Xuân, để tăng vụ, né hạn, gió nóng ở miền Trung. Giống OMCS 95-5 (Giống quốc gia được đưa vào sản xuất, đặc biệtvùng cần né lũ) Giống OMCS95-5 có tên gốc là OM 1305, chọn từ cặp laiOMCS6/IR68. Nếu áp dụng kỹ thuật sạ, giống có thời gian sinh trưởng 82-90 ngày (trung bình 85 ngày), năng suất 4-6 tấn/ha vụ Hè Thu và tiềm năngvề năng suất trên 7 tấn vụ Đông Xuân. Đặc điểm: đẻ nhánh khỏe, trọnglượng 1.000 hạt=26 g, rạ yếu do liên kết gen với thời gian sinh trưởng ngắn,nên bón phân hợp lý để tránh đổ ngã. Giống OMCS 95-5 có tính chống chịurầy nâu cấp 3-5, hơi kháng với bệnh đạo ôn. Trong sản xuất, chưa chú trọngnhân lộc giống, nên giống bị lẫn lộn thoái hóa, vài nơi có hiện tượng rầy nâuphát triển trên ruộng OMCS 95-5 đã được sản xuất với quy mô độ 20.000 ha(Giồng Riềng, Gò Quao,...). Gạo thuộc nhóm hạt dài (7mm), tỷ lệ dài/rộng3,4 hơi bạc bụng (cấp 1-3). Hội đồng Khoa học của Bộ Nông nghiệp vàPTNT đã chấp thuận và đề nghị với Bộ công nhận giống này là giống quốcgia. Giống OMCS 95/3 (Giống được khu vực hóa, đặc biệt cho vùng cầnné lũ, mặn) Giống OMCS95/3 có tên gốc là OM 1303, được chọn trong cặp laiOMCS5/IR64 từ năm 1989 theo phương pháp phả hệ, được đánh giá sơ khởitừ Đông Xuân 91-92. Thời gian sinh trưởng ngắn và năng suất cao nên đãđược đưa vào sản xuất thử tại nhiều điểm ở ĐBSCL cùng với giống OMCS95-5, với diện tích khoảng 6000 ha. Thời gian sinh trưởng của giống là 83-90 ngày, tán lá gọn, cứng cây,đã đạt năng suất 6-8 tấn/ha vụ Đông Xuân và hơn 4-5 tấn/ha vụ Hè Thu. Tuynhiên, do có râu ở bông nên diện tích gieo trồng bị hạn chế do bị thương láilúa chê, mặc dù bà con nông dân và chủ nhà máy xay chà vẫn chưa ưa thích. Giống có tính năng kháng đạo ôn cấp 3, hơi kháng đến hơi nhiễm rầ ynâu (cấp 3-5). Gạo có chiều dài 7 mm tỷ lệ dài/rộng: 3, hơi bạc bụng (cấp 3). Giống OMCS 96 (Giống được khu vực hóa) Giống OMCS96 được chọn từ cặp lai OM296/IR66 theo phương phápphả hệ từ năm 1990 và đã được khảo nghiệm sơ khởi từ vụ Động Xuân 92-93 và sản xuất thử trên một diện tích rộng từ vụ Hè Thu 96. Thời gian sinh trưởng của giống là 83-90 ngày. Chiều cao 92 cm, sốhạt chắc trên bông tới 70, tỷ lệ lép thấp (15,6%) và trọng lượng 1.000 hạt =26 gr. Kết quả khảo nghiệm trong 2 vụ Đông Xuân 95-96 và Hè Thu 96 chothấy giống cho năng suất cao nhất (7,53 tấn/ha) trong số các giống nhómOMCS được khảo nghiệm. Nhiều địa phương cũng đạt năng suất 4-6 tấn/havụ Hè Thu và 6-8 tấn vụ Đông Xuân. Giống có phản ứng cấp 3-5 đối với rầy nâu và cấp 5 đối với đạo ôn.Gạo OMCS có dạng hạt thon, dài trên dưới 7 mm, tỷ lệ dài/rộng: 3. ít bạcbụng, Đông Xuân đạt cấp 0-1, cơm khô. Các giống có triển vọng: Các giống OMCS được lai tạo hoặc tuyển chọn được Bộ Nông nghiệpvà PTNT công nhận ở mức độ giống quốc gia là OMCS94; OMCS95-5; ởmức độ khu vực hóa là OMCS95-3, OMCS96 và trước đây là OMCS7. Để đáp ứng yêu cầu sản xuất, chọn các giống lúa dưới 90 ngày, baogồ m cả những giống lúa dưới 80 ngày từ các giống để lai tạo giống lúa dưới70 ngày và các giống cao sản, chất lượng gạo cao, kháng sâu bệnh như IR64,OM997. Sản xuất thử 2 giống OMCS97 (1 dòng của OM 1723) và OMCS 97-25 (1 dòng của OM 1314 tuyển) hai giống trên tỏ ra có triển vọng tốt về mặtnăng suất cao, phẩm chất gạo tốt và kháng sâu bệnh. Thời kỳ mạ thích hợp của một giống lúa vào khoảng 1/5 thời giansinh trưởng của giống đó, hay giống 100 ngày có thời kỳ mạ khoảng 20 ngày,giống dưới 90 ngày có thời kỳ mạ khoảng 15 ngày; không có giới hạn thấp,hay trường hợp làm mạ không đất, mạ công nghiệp, tuổi mạ chỉ được đểkhoảng 7-10 ngày; hai phương thức sạ và cấy đều có thể phát huy được đầyđủ tiềm năng về năng suất của một giống, nếu như thực hiện đầy đủ nhữngbiện pháp kỹ thuật thích hợp. Đối với giống lúa OMCS, phương thức sạthích hợp hơn, vì dễ làm hơn. Mật độ sạ như các giống lúa khác, lượng hạtgiống khoảng 150 kg/ha, nếu làm đất kỹ, san phẳng ruộng, có thể giả mlượng hạt giống còn 100 kg/ha; dùng dụng cụ gieo hàng của IRRI mà Việ nlúa ĐBSCL vừa cải tiến và giới thiệu, có thể lượng hạt giống giả m còn 50-70 kg/ha; vụ Đông Xuân, gieo hàng theo hướng Bắc-Nam làm tăng năngsuất lúa từ 3-7 tạ thóc /ha, vì hàng lúa lợi dụng được ánh sáng bình minh vàhoàng hôn nhiều hơn; gieo hàng còn có thể trừ cỏ dại, khử lúa lẫn dễ hơn.Hạt giống trước khi gieo mạ hoặc sạ phải được rặt hay không lộn giống sạch,loại bỏ hạt lép, hạt sâu bệnh, khi cần phải x ...