Áp dụng lẽ công bằng là một giải pháp giải quyết tranh chấp dân sự khi các bên trong quan hệ dân sự không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định, không có tập quán, không thể áp dụng tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ bản của pháp luật, án lệ. Vậy lẽ công bằng là gì, việc áp dụng lẽ công bằng trên thực tế xét xử của tòa án trong thời gian qua như thế nào và có thể xem là lẽ công bằng đã được áp dụng trong một số án lệ hay không là những nội dung được tác giả phân tích trong bài viết này.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lẽ công bằng trong một số án lệ tại Việt Nam
LẼ CÔNG BẰNG TRONG MỘT SỐ ÁN LỆ TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Thị Minh Huệ199
Tóm tắt
Áp dụng lẽ công bằng là một giải pháp giải quyết tranh chấp dân sự khi các bên
trong quan hệ dân sự không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định, không có tập
quán, không thể áp dụng tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ bản của pháp luật, án lệ. Vậy
lẽ công bằng là gì, việc áp dụng lẽ công bằng trên thực tế xét xử của tòa án trong thời
gian qua như thế nào và có thể xem là lẽ công bằng đã được áp dụng trong một số án lệ
hay không là những nội dung được tác giả phân tích trong bài viết này.
Từ khóa: Lẽ công bằng, án lệ, áp dụng lẽ công bằng
1. Một số vấn đề chung về lẽ công bằng theo pháp luật Việt Nam
Một trong những khó khăn trong quá trình tòa án thực hiện chức năng xét xử của
mình là không có các quy định pháp luật để áp dụng khi xem xét giải quyết các vụ, việc
cụ thể. Thực tế này đồng thời ảnh hưởng đến quyền khởi kiện của các cá nhân, tổ chức
khi muốn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại tòa án. Để tháo gỡ khó khăn đó
và trên cơ sở kế thừa những ưu điểm của hệ thống thông luật, Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 (“BLTTDS năm 2015”) đã có quy định về việc tòa án không được từ chối giải
quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Theo Khoản 2 Điều 4
BLTTDS năm 2015, “Vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng là vụ việc dân sự
thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc dân sự đó
phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp
dụng. Việc giải quyết vụ việc dân sự quy định tại khoản này được thực hiện theo các
nguyên tắc do Bộ luật Dân sự và Bộ luật này quy định”. Khoản 1 Điều 6 Bộ luật Dân sự
năm 2015 (“BLDS năm 2015”) quy định: “1. Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm
vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có
quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều
chỉnh quan hệ dân sự tương tự. 2. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo
quy định tại Khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng”.
Như vậy có thể thấy, theo các quy định trên, những yêu cầu giải quyết vụ, việc của
cá nhân, tổ chức phù hợp với các quy định của pháp luật thì Tòa án đều phải thụ lý để
giải quyết. Nếu các vụ, việc đó chưa có điều luật để áp dụng thì Tòa án dựa vào các quy
định về áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án
lệ và lẽ công bằng được áp dụng để xem xét, giải quyết vụ, việc. Khái niệm lẽ công bằng
cũng lần đầu tiên xuất hiện trong hệ thống pháp luật Việt Nam và được ghi nhận là cơ sở
để Tòa án giải quyết các vụ án, vụ việc theo các điều kiện nhất định.
199
Giám đốc Trung tâm liên kết Đào tạo Luật sư Thương mại quốc tế, Học viện Tư pháp.
127
Có rất nhiều các nhà nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam có những quan điểm
nhìn nhận và đưa ra các định nghĩa khác nhau về lẽ công bằng. Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 cũng có quy định về lẽ công bằng, cụ thể tại Khoản 3 Điều 45: “Lẽ công bằng
được xác định trên cơ sở lẽ phải, được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với
nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự
trong vụ việc dân sự đó”. Theo quy định này, lẽ công bằng có một số đặc điểm chính như
sau:
Thứ nhất, lẽ công bằng phải là lẽ phải, những điều hợp lý, hợp tình, phù hợp với
các quy tắc xử sự, các chuẩn mực đạo đức; là lẽ phải và có sự hợp lý.
Thứ hai, lẽ công bằng phải là những điều được xã hội thừa nhận – tức là được sự
thừa nhận của số đông do những yếu tố được nêu trong mục thứ nhất.
Thứ ba, lẽ công bằng phải phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc – đặc điểm này của lẽ
công bằng đảm bảo rằng lẽ công bằng là những giá trị tốt đẹp, nhân văn, được nhìn nhận
và đánh giá một cách khách quan.
Tòa án khi giải quyết các vụ việc cũng phải tuân theo các điều kiện quy định tại
khoản 1 Điều 6 BLDS năm 2015 như sau: (i) vụ việc được giải quyết là vụ việc phát sinh
từ quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự; (ii) các bên tranh chấp không
có thỏa thuận; (iii) pháp luật không có quy định; (iv) không có tập quán được áp dụng;
(v) không thể áp dụng tương tự pháp luật; (vi) không áp dụng được các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật dân sự; (vii) không có án lệ.
Có quan điểm cho rằng: “Khi áp dụng lẽ công bằng để giải quyết tranh chấp dân
sự, trong phần nội dung vụ án và nhận định của toà án phải ghi rõ những yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, yêu cầu khởi kiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân; yêu cầu phản tố,
đề nghị của bị đơn; yêu cầu độc lập, đề nghị của người có quyền, nghĩa vụ liên quan để
qua đó căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng
tại phiên toà để phân tích, đánh giá, nhận định đầy đủ, khách quan về các tình tiết của vụ
án, những sự kiện để áp dụng lẽ công bằng. Căn cứ phán quyết của toà án là dựa trên lẽ
công bằng, các yếu tố của lẽ công bằng được mô tả, viện dẫn áp dụng. Thay vì viện dẫn
điều luật trong các vụ tranh chấp có luật để áp dụng hoặc có tập quán để áp dụng hoặc có
luật để áp dụng tương tự hoặc có án lệ để áp dụng, thì trường hợp lẽ công bằng được áp
dụng để giải quyết tranh chấp cũng phải được toà án xác định rõ”200. Ý kiến này có những
điểm hợp lý nhất định khi cho rằng Hội đồng xét xử cần xác định rõ ràng rằng căn cứ để
Hội đồng xét xử ra bản án, quyết định là dựa trên lẽ công bằng và các yếu tố của lẽ công
bằng được mô tả, viện dẫn cụ thể - đây là cơ sở quan trọng để các đương sự đưa ra các
lập luận để thực hiện quyền kháng cáo, cũng như bảo v ...