Danh mục

Lịch sử khẩn hoang Việt Nam 2

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 128.96 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Lịch sử khẩn hoang Việt Nam 2Năm 1879, tố giác kịp thời âm mưu khởi loạn của nhóm Thiên Địa Hội ở Sóc Trăng. — Năm 1881, cùng với một cha sở ở Lương Hòa (Tân An) kịp thời tố giác âm mưu khởi loạn ở Long Hưng, Lộc Thành và ở vùng Thất Sơn. — Năm 1878, điều khiển việc sửa con kinh Nước Mặn, bắt dân ở tổng Lộc Thành Hạ làm xâu, dân vùng này nổi tiếng là cứng đầu. Nhiệm vụ quan trọng của Phương vẫn là dọ thám vùng Chợ Lớn, Cần Giuộc và Tân...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lịch sử khẩn hoang Việt Nam 2 Lịch sử khẩn hoang Việt Nam 2Năm 1879, tố giác kịp thời âm mưu khởi loạn của nhóm Thiên Địa Hội ở SócTrăng.— Năm 1881, cùng với một cha sở ở Lương Hòa (Tân An) kịp thời tố giác âmmưu khởi loạn ở Long Hưng, Lộc Thành và ở vùng Thất Sơn.— Năm 1878, điều khiển việc sửa con kinh Nước Mặn, bắt dân ở tổng Lộc ThànhHạ làm xâu, dân vùng này nổi tiếng là cứng đầu.Nhiệm vụ quan trọng của Phương vẫn là dọ thám vùng Chợ Lớn, Cần Giuộc vàTân An. Về mặt chánh quyền, trước tiên làm hộ trưởng (bấy giờ, thành phố ChợLớn chia ra làm 20 hộ); năm 1868 Phương trình cho thực dân danh sách nhữngngười đáng tin cậy có thể làm chức hội tề. Năm 1872, được chỉ định làm hội viênHội đồng thành phố Chợ Lớn. Năm 1879, làm phụ tá cho Xã Tây Chợ Lớn. Như tabiết, Chợ Lớn là nơi tập trung thương gia Huê kiều, Phương không bỏ qua cơ hộiđể làm giàu, giải quyết mọi “áp—phe” giùm cho thương gia, đãi tiệc viên chứcPháp, làm trung gian lo hối lộ. Nhờ vậy mà làm giàu nhanh chóng, uy thế lên caođến mức quan Toàn quyền Paul Doumer khi vào Nam còn ghé nhà Phương ănuống, có lẽ nhờ dịp này mà được quan Toàn quyền cho khẩn trưng sở đất ruộnglớn đến 2223 mẫu tây. Trong lúc dọ thám, Phương tỏ ra khéo léo, tránh gây thùoán công khai, nhờ đó mà so với Lãnh binh Tấn và Tổng đốc Lộc, bề ngoài thấynhư là Phương hiền lành, cứu người này, bảo lãnh người kia.Nhưng trời bất dung gian đảng, Phương bị mất tín nhiệm vì đã bảo lãnh, xin chứachấp để theo dõi Thủ khoa Huân trong nhà. Suốt khoảng 3 năm (sau khi bị đày ởCayenne rồi được ân xá), Thủ khoa Huân biết lợi dụng hoàn cảnh để liên lạc vớinhững Huê kiều theo Thiên Địa Hội ở Chợ Lớn và tới lui vùng Tân An để cổ súy,tổ chức cuộc kháng Pháp. Chuyện vỡ lỡ ra, t ưởng chừng Phương mang họa. Bấylâu ngoài Thủ khoa Huân, Phương đã từng bảo lãnh nhiều người mà thực dân Phápkhông tin cậy cho lắm. Kẻ thù của Phương là Tổng đốc Lộc thừa dịp này làmnúng, đưa điều kiện là giam lỏng Phương trước khi dẹp loạn Thủ khoa Huân.Nhưng rốt cuộc, Phương vẫn ung dung, càng mau giàu thêm và được thang Tổngđốc — nên hiểu là Tổng đốc hàm — vì theo quy chế quan lại bản xứ do thực dân ởNam kỳ bày ra, chỉ đến ngạch đốc phủ sứ là hết.Tổng đốc Trần Bá LộcĐây là tay sai đắc lực số một, vượt hẳn hai nhân vật trên : háo thắng, ham địa vị,ưa tàn sát theo lối phong kiến. Khi Pháp chiếm thành Mỹ Tho, Lộc sốt sắng tìm cơhội bèn tản cư với chiếc ghe chở đầy tiền kẽm (tiền của ai ?), đến tr ình diện vớiCha Marc, bấy giờ cha sở này kiêm luôn chức tham biện. Năm 1861, ngay sau khixin việc, Lộc được cấp cho căn nhà lá, gia nhập lính mã tà rồi lập công lên cai, lênđội. Ngoài thời giờ làm lính, Lộc còn lãnh trách nhiệm giữ kho lúa cho nhà nướcvà được quan tham biện cho ân huệ là đem cơm dư của lính về nhà mà nuôi heo.Nhờ hăng hái điềm chỉ và bắn giết, năm 1865 làm huyện, ngồi tại Cái Bè để canhchừng vùng Đồng Tháp. Cái Bè là vị trí chiến lược trên Tiền giang, có thể đi thẳnglên Cao Miên. Bấy giờ một số quan lại đàng cựu gom về Bình Cách, Thuộc Nhiêu,Cai Lậy, lập đồn để liên lạc với Thiên Hộ Dương trong bưng. Lộc đánh quân sĩđàng cựu ra khỏi Cai Lậy rồi cuộc tấn công đại quy mô của Pháp diễn ra, Lộcđóng vai trò quan trọng, đánh từ Cần Lố để nối với mấy cánh quân khác đánh từđồn Hữu (phía Bến Lức) và đồn Tiền (phía Cai Lậy). Năm 1867, thăng làm phủrồi năm sau góp công đánh đuổi và bắt sống Tổng binh Bút khi ông này đánh vàotoán quân Pháp trú đóng tại Sa Đéc (đình làng Tân Qů Đông). Lộc coi huyện TânThành (Sa Đéc), sau được gọi về Cái Bè, thăng đốc phủ sứ (15/8/1868). Bấy giờ ởRạch Giá, Nguyễn Trung Trực khởi nghĩa, tỉnh lỵ này bị tái chiếm, Nguyễn TrungTrực chạy ra đảo Phú Quốc. Pháp kéo binh bao vây đảo. Lộc d ùng thủ đoạn cốhữu là bắt giết thân nhân những người trong cuộc. Nguyễn Trung Trực phải ra mặtđể cứu sống những người bị bắt làm con tin. Lộc lãnh trách nhiệm điều tra rồitrình cho Pháp danh sách 170 người liên can với Nguyễn Trung Trực.Từ 1868 tới 1871, Lộc góp phần giảy vây đồn Cái Bè, bấy giờ bị bốn ông Long,Thận, Rộng, Đước tấn công (bốn ông này đều bị Lộc giết). Rồi đến vụ tham biệnVĩnh Long là Salicetti bị giết khi đến Vũng Liêm đàn áp cuộc khởi loạn : Lộcđụng với nghĩa quân ở Láng Thé, gồm đa số là người Miên, cuộc chiến khá sôinổi, nhiều phen tưởng chừng Lộc thua trận nhưng sau rốt nhờ khí giới tốt nênthắng.Năm 1875, lại nổ lực dẹp cuộc khởi nghĩa của Thủ khoa Huân, có Phủ Đức tiếptay để chận phía cửa Tiểu (đề phòng Thủ khoa Huân trốn theo đường biển). Lộcruồng vùng còn lại, Thủ khoa Huân bị bắt gần Chợ Gạo. Trận này Pháp giao trọnquyến bắn giết nên lính của Lộc ruồng các lùm bụi, đến mức nai, chồn, cọp chạytán loạn vào xóm.Năm 1878, dẹp cuộc khởi loạn của Ong và Khả ; hai vị này toan đánh thình lìnhchợ Mỹ Tho. Năm 1883, đàn áp cuộc khởi nghĩa của người Miên ở Trà Béc (CaoMiên).ở miền Trung bấy g ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: