Lịch Sử Trung Quốc phầnII Chương 3-I
Số trang: 23
Loại file: pdf
Dung lượng: 260.39 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Sử Trung QuốcChương IIIThống Nhất Trở Lại ( 580 - 906)THỐNG NHẤT TRỞ LẠI (580-906) A. NHÀ TÙY (581-618) l. Văn đế (581-604) Dương Kiên ép vua Bắc Chu nhường ngôi, lập nên nhà Tùy (tức Tùy Văn đế) và 7 năm sau đã thống nhất được Trung Quốc một cách dễ dàng: ở Hoa Bắc, người Hồ đã Hoa hóa nhiều rồi mà người Hoa cũng đã Hồ hóa một phần, nên có vài nơi chống đối lẻ tẻ thì chỉ trong một vài năm ông đã dẹp xong; ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lịch Sử Trung Quốc phầnII Chương 3-I Sử Trung Quốc Chương III Thống Nhất Trở Lại ( 580 - 906)THỐNG NHẤT TRỞ LẠI (580-906)A. NHÀ TÙY (581-618)l. Văn đế (581-604)Dương Kiên ép vua Bắc Chu nhường ngôi, lập nên nhà Tùy (tức Tùy Văn đế) và 7năm sau đã thống nhất được Trung Quốc một cách dễ dàng: ở Hoa Bắc, người Hồđã Hoa hóa nhiều rồi mà người Hoa cũng đã Hồ hóa một phần, nên có vài nơichống đối lẻ tẻ thì chỉ trong một vài năm ông đã dẹp xong; còn Hoa Nam tuy tiếnbộ về văn hóa mà suy nhược về võ bị, triều đình lại không được lòng dân và giớiđại điền chủ, lại thêm dân chúng vẫn coi Dương Kiên là người Hoa, nên khi ôngđem nửa triệu quân qua sông Dương Tử thì cả miền Nam qui phục.Nhưng nhà Tùy rất ngắn ngủi, chỉ có 2 đời vua, trước sau chỉ được 37 năm, sau khithống nhất về đất đai, chưa kịp tổ chức xong xã hội - kinh tế thì đã sụp đổ vì cái tệxa hoa, bạo ngược như nhà Tần và Trung Hoa lại phải trải qua một thời loạn lạcsáu, bảy năm nữa; cho nên chỉ nên coi nhà Tùy là một giao thời, và công của nhàTùy chỉ là dọn dẹp, chuẩn bị cho thời thống nhất thực sự ở đời Đường, cũng nhưnhà Tần đã chuẩn bị cho nhà Hán. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên sau 8 thế kỉ.Văn đế không có tài nhưng siêng năng, dám làm. Ông đã Hồ hóa, là một quân nhânnên rất trọng võ bị, hơi độc tài, không ưa đạo Khổng, vì thấy các quan lại có Nhohọc thường không chịu để ông sai bảo như bọn tướng dưới quyền ông. Ông lại sống 1khắc khổ như người Hồ, tới mức keo kiệt nữa, cho rằng các nghi thức tế lễ củaKhổng tốn tiền quá, và bắt quan lại phải sống đạm bạc.Nhưng nhờ chính sách kinh tế của ông mà nước thịnh lên.Cứ sau một thời loạn lạc lâu dài, các ông vua sáng nghiệp đều dùng biện phápkhuyến nông. Văn đế miễn nhiều thứ thuế cho dân nghèo, chia đất lại như thời BắcTề: mỗi cặp vợ chồng được phát cho hai chục mẫu để làm, già hoặc chết thì đất trởvề triều đình, với 20 mẫu nữa làm của riêng. Năm nào mất mùa thì miễn thuế. Ônglại lập những nghĩa sương, kho lúa để phát chẩn cho dân nghèo. Ông bỏ đặc quyềnmuối.Thương nghiệp cũng phát triển. Kinh đô Tràng An là nơi quốc tế mậu dịch. QuảngChâu là nơi hải ngoại mậu dịch.Giới quí tộc và đại địa chủ, quan lại ở Nam bất bình. Một số bị loại ra khỏi chínhquyền để tiết kiệm ngân sách, số còn lại phải giảm mức sống. Vả lại, kinh đô bâygiờ ở Tràng An, rất xa; Nam Kinh mất địa vị, chỉ là một thị trấn thường, làm ănkhông phát đạt bằng trước được. Giới sĩ tộc có dư lúa, phải chở lên miền Bắc bán,phí tổn nặng, ít lời. Bọn bất mãn đó đứng vào phe thứ tử của Văn đế là Quảng,cùng nhau âm mưu giết Văn đế và thái tử, để lên ngôi, tức Dạng đế.2. Dạng đế (605-617)Tính tình ngược hẳn với cha. Cha cần kiệm bao nhiêu thì con xa xỉ vô độ bấynhiêu, lại rất bạo ngược.Ông ta ghét kinh đô Tràng An, dời đô lại Lạc Dương. Bắt dân xây cất lại kinhthành, có tháng dùng đến 2 triệu người, bắt cả vạn đại thương gia cung cấp vật liệu,thực phẩm. Cung điện, vườn thượng uyển nối tiếp nhau, chu vi tới mấy trăm dặm(mỗi dặm là nửa cây số)! Ông cho gom góp về đó tất cả những cây cỏ, cầm thú lạ ởmọi nơi. Trong vườn thượng uyển có biển hồ lớn nhân tạo, nước dẫn từ sông Lạcvào, giữa biển có ba đảo tiên: Phương Trượng, Bồng Lai, Doanh Châu. Bờ biển cất16 viện cực kì hoa lệ.Xe chở gỗ quí từ miền xa lại để xây cất, nối tiếp nhau cả ngàn dặm. Cứ 10 người 2làm xâu thì chết tới 4 - 5 người.Ngoài ra ông lại xây cất 40 li cung nữa.Công trình kiến thiết quan trọng nhất trong đời ông là đào kinh Vận Hà. Một hôm,ông ngỏ ý muốn tuần du phương Nam, một phần vì thích cảnh thích người ở GiangĐô, một phần vì ông muốn xem dân tình nơi đó ra sao: dân có thuần không haymưu tính phản loạn; một viên cận thần tâu: muốn đi thì phải từ Lạc Dương xuôidòng Hoàng Hà tới biển rồi theo bờ biển xuống sông Dương Tử mà mùa đó biểnđộng; tốt hơn cả là đào một con kinh nối Hoàng Hà với sông Dương Tử, như vậykhỏi sợ sóng gió mà lại được biết dân tình nhiều nơi, coi được nhiều cảnh đẹp.Ông đồng ý và tức tốc ra lệnh đào kinh. Ông bắt tất cả những người đàn ông nào từ15 tuổi trở lên còn sức lao động thì phải đi đào kinh hết, hễ trốn thì bị trừng trịnặng. Có sách chép rằng số người làm xâu lên tới 3,6 triệu; ấy là chưa kể cứ mỗi tổ5 gia đình phải chỉ định một người già hoặc một em trai nhỏ, một người đàn bà đểđem cơm nước cho phu đào kinh. Bọn này mang xẻng, cuốc, đồ dùng đi thànhhàng, dài tới mấy ngàn dặm. Bọn người bổ sung tới không ngớt, nhiều như “đànong, đàn kiến”. Phải dùng 5.000 lính đốc thúc họ làm. Nhiều người chết vì đuốisức.Từ thế kỉ thứ III, dân mỗi miền đã đào những khúc kinh nhỏ nối vài sông rạch đểdễ giao thông từ Bắc xuống Nam. Nhưng tới đời Dạng đế thì mới thực hiện mộtcách đại qui mô: trong mấy năm đào gấp ba khúc kinh dài nối liền những khúc nhỏcó từ trước đó. Các đời sau tu bổ, nối dài thêm, và đến đời Nguyên mới t ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lịch Sử Trung Quốc phầnII Chương 3-I Sử Trung Quốc Chương III Thống Nhất Trở Lại ( 580 - 906)THỐNG NHẤT TRỞ LẠI (580-906)A. NHÀ TÙY (581-618)l. Văn đế (581-604)Dương Kiên ép vua Bắc Chu nhường ngôi, lập nên nhà Tùy (tức Tùy Văn đế) và 7năm sau đã thống nhất được Trung Quốc một cách dễ dàng: ở Hoa Bắc, người Hồđã Hoa hóa nhiều rồi mà người Hoa cũng đã Hồ hóa một phần, nên có vài nơichống đối lẻ tẻ thì chỉ trong một vài năm ông đã dẹp xong; còn Hoa Nam tuy tiếnbộ về văn hóa mà suy nhược về võ bị, triều đình lại không được lòng dân và giớiđại điền chủ, lại thêm dân chúng vẫn coi Dương Kiên là người Hoa, nên khi ôngđem nửa triệu quân qua sông Dương Tử thì cả miền Nam qui phục.Nhưng nhà Tùy rất ngắn ngủi, chỉ có 2 đời vua, trước sau chỉ được 37 năm, sau khithống nhất về đất đai, chưa kịp tổ chức xong xã hội - kinh tế thì đã sụp đổ vì cái tệxa hoa, bạo ngược như nhà Tần và Trung Hoa lại phải trải qua một thời loạn lạcsáu, bảy năm nữa; cho nên chỉ nên coi nhà Tùy là một giao thời, và công của nhàTùy chỉ là dọn dẹp, chuẩn bị cho thời thống nhất thực sự ở đời Đường, cũng nhưnhà Tần đã chuẩn bị cho nhà Hán. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên sau 8 thế kỉ.Văn đế không có tài nhưng siêng năng, dám làm. Ông đã Hồ hóa, là một quân nhânnên rất trọng võ bị, hơi độc tài, không ưa đạo Khổng, vì thấy các quan lại có Nhohọc thường không chịu để ông sai bảo như bọn tướng dưới quyền ông. Ông lại sống 1khắc khổ như người Hồ, tới mức keo kiệt nữa, cho rằng các nghi thức tế lễ củaKhổng tốn tiền quá, và bắt quan lại phải sống đạm bạc.Nhưng nhờ chính sách kinh tế của ông mà nước thịnh lên.Cứ sau một thời loạn lạc lâu dài, các ông vua sáng nghiệp đều dùng biện phápkhuyến nông. Văn đế miễn nhiều thứ thuế cho dân nghèo, chia đất lại như thời BắcTề: mỗi cặp vợ chồng được phát cho hai chục mẫu để làm, già hoặc chết thì đất trởvề triều đình, với 20 mẫu nữa làm của riêng. Năm nào mất mùa thì miễn thuế. Ônglại lập những nghĩa sương, kho lúa để phát chẩn cho dân nghèo. Ông bỏ đặc quyềnmuối.Thương nghiệp cũng phát triển. Kinh đô Tràng An là nơi quốc tế mậu dịch. QuảngChâu là nơi hải ngoại mậu dịch.Giới quí tộc và đại địa chủ, quan lại ở Nam bất bình. Một số bị loại ra khỏi chínhquyền để tiết kiệm ngân sách, số còn lại phải giảm mức sống. Vả lại, kinh đô bâygiờ ở Tràng An, rất xa; Nam Kinh mất địa vị, chỉ là một thị trấn thường, làm ănkhông phát đạt bằng trước được. Giới sĩ tộc có dư lúa, phải chở lên miền Bắc bán,phí tổn nặng, ít lời. Bọn bất mãn đó đứng vào phe thứ tử của Văn đế là Quảng,cùng nhau âm mưu giết Văn đế và thái tử, để lên ngôi, tức Dạng đế.2. Dạng đế (605-617)Tính tình ngược hẳn với cha. Cha cần kiệm bao nhiêu thì con xa xỉ vô độ bấynhiêu, lại rất bạo ngược.Ông ta ghét kinh đô Tràng An, dời đô lại Lạc Dương. Bắt dân xây cất lại kinhthành, có tháng dùng đến 2 triệu người, bắt cả vạn đại thương gia cung cấp vật liệu,thực phẩm. Cung điện, vườn thượng uyển nối tiếp nhau, chu vi tới mấy trăm dặm(mỗi dặm là nửa cây số)! Ông cho gom góp về đó tất cả những cây cỏ, cầm thú lạ ởmọi nơi. Trong vườn thượng uyển có biển hồ lớn nhân tạo, nước dẫn từ sông Lạcvào, giữa biển có ba đảo tiên: Phương Trượng, Bồng Lai, Doanh Châu. Bờ biển cất16 viện cực kì hoa lệ.Xe chở gỗ quí từ miền xa lại để xây cất, nối tiếp nhau cả ngàn dặm. Cứ 10 người 2làm xâu thì chết tới 4 - 5 người.Ngoài ra ông lại xây cất 40 li cung nữa.Công trình kiến thiết quan trọng nhất trong đời ông là đào kinh Vận Hà. Một hôm,ông ngỏ ý muốn tuần du phương Nam, một phần vì thích cảnh thích người ở GiangĐô, một phần vì ông muốn xem dân tình nơi đó ra sao: dân có thuần không haymưu tính phản loạn; một viên cận thần tâu: muốn đi thì phải từ Lạc Dương xuôidòng Hoàng Hà tới biển rồi theo bờ biển xuống sông Dương Tử mà mùa đó biểnđộng; tốt hơn cả là đào một con kinh nối Hoàng Hà với sông Dương Tử, như vậykhỏi sợ sóng gió mà lại được biết dân tình nhiều nơi, coi được nhiều cảnh đẹp.Ông đồng ý và tức tốc ra lệnh đào kinh. Ông bắt tất cả những người đàn ông nào từ15 tuổi trở lên còn sức lao động thì phải đi đào kinh hết, hễ trốn thì bị trừng trịnặng. Có sách chép rằng số người làm xâu lên tới 3,6 triệu; ấy là chưa kể cứ mỗi tổ5 gia đình phải chỉ định một người già hoặc một em trai nhỏ, một người đàn bà đểđem cơm nước cho phu đào kinh. Bọn này mang xẻng, cuốc, đồ dùng đi thànhhàng, dài tới mấy ngàn dặm. Bọn người bổ sung tới không ngớt, nhiều như “đànong, đàn kiến”. Phải dùng 5.000 lính đốc thúc họ làm. Nhiều người chết vì đuốisức.Từ thế kỉ thứ III, dân mỗi miền đã đào những khúc kinh nhỏ nối vài sông rạch đểdễ giao thông từ Bắc xuống Nam. Nhưng tới đời Dạng đế thì mới thực hiện mộtcách đại qui mô: trong mấy năm đào gấp ba khúc kinh dài nối liền những khúc nhỏcó từ trước đó. Các đời sau tu bổ, nối dài thêm, và đến đời Nguyên mới t ...
Gợi ý tài liệu liên quan:
-
Tiểu luận: Lý thuyết xã hội học
40 trang 260 0 0 -
Oan và giải oan trong truyện Nghiệp oan của Đào Thị của Nguyễn Dữ
6 trang 254 0 0 -
4 trang 212 0 0
-
Tiểu luận: Tìm hiểu thực trạng giáo dục Đại Học hiện nay ở nước ta
27 trang 206 0 0 -
Tiểu luận: Xã hội học chính trị - xã hội học dân sự
15 trang 126 0 0 -
TIỂU LUẬN: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC ĐỨC CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẦU THẾ KỈ XX
40 trang 114 0 0 -
Báo cáo Sự thành lập Công ty Đông Ấn Anh và những nỗ lực thâm nhập phương Đông trong thế kỷ XVII.
9 trang 103 0 0 -
4 trang 81 0 0
-
1 trang 67 0 0
-
Tiểu luận: Nhóm Xã Hội Gia Đình
13 trang 65 0 0