Danh mục

Liên kết vùng của chuỗi giá trị hàng hoá nông lâm nghiệp (nghiên cứu thí điểm trên lưu vực sông Ba, sông Kôn)

Số trang: 14      Loại file: pdf      Dung lượng: 7.38 MB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: 5,000 VND Tải xuống file đầy đủ (14 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết nghiên cứu phương pháp luận liên kết vùng theo lưu vực sông, áp dụng cho liên kết giữa vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ trong xây dựng chuỗi giá trị hàng hóa nông lâm nghiệp. Kết quả nghiên cứu xác định: Lưu vực sông Ba, sông Kôn, là vùng có thế mạnh rất lớn cho phát triển gỗ rừng trồng và mía đường
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Liên kết vùng của chuỗi giá trị hàng hoá nông lâm nghiệp (nghiên cứu thí điểm trên lưu vực sông Ba, sông Kôn) Tuyển tập báo cáo hội thảo “Phát triển kinh tế Việt Nam trong bối cảnh biến đổi toàn cầu” Liên kết vùng của chuỗi giá trị hàng hoá nông lâm nghiệp (nghiên cứu thí điểm trên lưu vực sông Ba, sông Kôn) Nguyễn Hữu Xuân(1), Nguyễn An Thịnh(2), Ngô Anh Tú(1), Phan Thái Lê(1), Nguyễn Trọng Đợi(1) (1) Trường Đại học Quy Nhơn; (2) Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN Tóm tắt: Bài báo nghiên cứu phương pháp luận liên kết vùng theo lưu vực sông, áp dụng cho liên kết giữa vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ trong xây dựng chuỗi giá trị hàng hóa nông lâm nghiệp. Kết quả nghiên cứu xác định: Lưu vực sông Ba, sông Kôn, là vùng có thế mạnh rất lớn cho phát triển gỗ rừng trồng và mía đường. Diện tích rừng trồng đạt 148.000 ha (2017) trong đó, diện tích rừng trồng thành rừng đạt 114.000 ha, năng suất trung bình 61,8 tấn/ha, sản lượng gỗ rừng trồng tới 7.75 triệu tấn; Diện tích mía 75.500 ha, sản lượng mía cây 13,5 triệu tấn; Đã hình thành nhiều nhà máy chế biến nông lâm sản quy mô lớn; Có cảng biển hàng hóa xuất khẩu nông sản... Nghiên cứu này đã xác lập cơ sở khoa học cho việc hình thành mô hình liên kết theo chuỗi giá trị nông sản gỗ rừng trồng và mía đường với các khâu liên kết gồm: khâu sản xuất, khâu thu mua, vận chuyển, khâu chế biến và khâu tiêu thụ nhằm gia tăng giá trị hàng hóa, góp phần phát triển bền vững nông lâm nghiệp của các vùng. Từ khóa: liên kết vùng, chuỗi giá trị, sản xuất nông lâm nghiệp, sông Ba, sông Kôn. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Liên kết vùng là hình thành các không gian kinh tế để thúc đẩy sự phát triển với lựa chọn các cực phát triển ban đầu, xóa bỏ ranh giới địa lý hành chính, nhằm giải phóng tiềm lực địa phương và khả năng phối kết hợp giữa các địa phương, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Trong liên kết vùng giữa Tây Nguyên - Nam Trung bộ theo lưu vực sông, việc xây dựng và phát triển chuỗi giá trị sản phẩm nông lâm nghiệp có tác dụng huy động các nguồn lực, nâng cao chất lượng và giá trị hàng hóa, tăng cường hội nhập quốc tế. Lưu vực sông Ba và sông Kôn trong phạm vi lãnh thổ các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Phú Yên và Bình Định có vai trò quan trọng trong cung cấp tài nguyên thiên nhiên cho phát triển kinh tế xã hội. Những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở khu vực này bao gồm: dân số tăng nhanh, tỷ lệ nghèo cao, nhóm ngành I chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế,… Suy thoái tài nguyên đất - nước - rừng, tai biến thiên nhiên có xu hướng gia tăng trong bối cảnh biến đổi khí hậu (cháy rừng, suy giảm độ che phủ rừng, hoang mạc hóa, ô nhiễm nguồn nước, lũ lụt, lũ quét, nắng nóng, dòng chảy cạn kiệt, sạt lở bờ sông, bờ biển,…) thách thức sự phát triển bền vững của khu vực. Bài viết trình bày cơ sở khoa học về liên kết vùng Tây Nguyên - Nam Trung Bộ theo lưu vực sông Ba, sông Kôn phục vụ phát triển chuỗi giá trị hàng hoá nông lâm nghiệp. Xác lập quy trình mô hình tổ chức lãnh thổ liên vùng gồm: i) Phân tích cơ sở khoa học và pháp lý cho xây dựng mô hình liên kết vùng; ii) Tính toán chi phí lợi ích, hiệu quả kinh tế, môi 227 Tuyển tập báo cáo hội thảo “Phát triển kinh tế Việt Nam trong bối cảnh biến đổi toàn cầu” trường của chuỗi giá trị trong liên kết; iii) Xác định không gian liên kết xây dựng và phát triển chuỗi giá trị và iv) Phân tích, xác lập nguyên tắc và khả năng phối hợp triển khai thực hiện mô hình liên kết của các chủ thể tham gia chuỗi giá trị hàng hoá gỗ rừng trồng và chuỗi giá trị mía đường. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Bài báo đã sử dụng một số phương pháp thực hiện sau: - Phương pháp thống kê, phân tích dữ liệu: Xử lý chuỗi dữ liệu thống kê lâm nghiệp, cây trồng của 37 huyện, thị thuộc 4 tỉnh của 2 lưu vực sông Ba và sông Kôn. - Phương pháp phỏng vấn nhanh nông thôn (PRA): Kết hợp với khảo sát thực địa, phỏng vấn trực tiếp các hộ nông dân có trồng rừng, trồng mía, hộ gia đình làm dịch vụ khuyến nông, quản lý nhà máy, doanh nghiệp (đại diện cơ sở buôn bán vật tư, thu mua, vận chuyển gỗ rừng, mía), phỏng vấn nhanh theo bảng số liệu, ghi nhận kết quả và xử lý theo yêu cầu. Kết quả xử lý bảng hỏi là cơ sở xây dựng mô hình liên kết theo chuỗi giá trị nông lâm nghiệp của vùng. - Phương pháp phân tích không gian ứng dụng GIS: Sử dụng một số phần mềm GIS cho việc xây dựng/ biên tập bản đồ rừng trồng; trích xuất dữ liệu hiện trạng sử dụng đất, hiện trạng rừng trồng, sự phân bố và biến động diện tích rừng trồng, vùng nguyên liệu mía trên lưu vực sông Ba, sông Kôn. 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1. Lý luận về liên kết vùng và chuỗi giá trị nông lâm sản 3.1.1. Hội nhập vùng Hội nhập vùng (regional integration) là quá trình gắn kết các lãnh thổ đơn lẻ trong một khu vực thành một tổng thể lãnh thổ có quy mô lớn hơn, hướng tới giải quyết các vấn đề chung về kinh tế, an ninh, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường (Haas, 1971; Lombaerde và Langenhove, 2007). Hội nhập vùng bao gồm liên kết vùng (regional linkages), hợp tác vùng (regional cooperation) và quản trị hội nhập vùng phục vụ phát triển (governing regional integration for development). Bản chất của hội nhập vùng là cách thức tiếp cận và kết nối các vùng lân cận, tạo ra mối liên kết về không gian và các lĩnh vực trong khu vực. Trên cơ sở này, các quá trình hợp tác vùng được đề xuất như một hệ quả tất yếu của quá trình hội nhập. Nhằm đảm bảo quá trình hội nhập vùng diễn ra hiệu quả và công bằng, quản trị hội nhập vùng cung cấp các nguyên tắc thực hiện và thúc đẩy các sáng kiến đảm bảo cho hội nhập vùng thực hiện một cách hiệu quả và đúng hướng [10, 11, 12]. 3.1.2. Liên kết vùng Hội nhập vùng dẫn tới hình thành các vùng liên kết (hoặc liên vùng) hoạt động như một thể thống nhất thông qua một quá trình liên kết cá ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: