Thông tin tài liệu:
Các xét nghiệm Test đánh giá hoạt động điện cơ (horizontal saccadic velocity) bằng cách sử dụng điện nhãn cầu để đánh giá chức năng cơ trực ngoài (có hình ảnh minh hoạ).Điện cơ giảm khi nhìn ra ngoài ở một bệnh nhân tăng áp lực nội sọ được một số tác giả xem là những triệu chứng kinh điển để phản ánh dây TKVI tối thiểu. Đỉnh điểm của điện cơ khi nhìn ra ngoài bình thường, cho thấy chức năng của cơ trực ngoài không được sửa chữa, đã được thống kê ở bệnh nhân liệt phân...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Liệt phân kỳ (Kỳ 2) Liệt phân kỳ (Kỳ 2) Các xét nghiệm Test đánh giá hoạt động điện cơ (horizontal saccadic velocity) bằng cách sửdụng điện nhãn cầu để đánh giá chức năng cơ trực ngoài (có hình ảnh minh hoạ).Điện cơ giảm khi nhìn ra ngoài ở một bệnh nhân tăng áp lực nội sọ được một sốtác giả xem là những triệu chứng kinh điển để phản ánh dây TKVI tối thiểu. Đỉnhđiểm của điện cơ khi nhìn ra ngoài bình thường, cho thấy chức năng của cơ trựcngoài không được sửa chữa, đã được thống kê ở bệnh nhân liệt phân kỳ biệt lập. Chẩn đoán phân biệt Đại đa số các tác giả cho rằng liệt phân kỳ là một biểu hiện lâm sàng hoàntoàn khác với liệt dây VI. Biểu hiện Liệt phân Liệt hai kỳ lâm sàng dây VI Lác tăng Không Lác trong thay đổi khi liếc ra ngoài Hạn chế Vận nhãn Tốt nhìn ngoài Điện cơ Bình Giảm khi nhìn ra ngoài thường Rung giật Có khi mắt nhãn cầu có góc Không hãm (Endpoint nhìn ra ngoài nystamus) Độ lác Độ lác khi Khi nhìn nhìn xa so với nhìn xa và gần xa lác nhiều hơn gần như nhau Tuy nhiên Jampolsky cho rằng liệt phân kỳ đồng nghĩa với liệt dây VI haibên và việc đánh giá cẩn thận sẽ cho thấy loạn dưỡng cơ trực ngoài và biên độ hợpthị phân kỳ. Một số rối loạn thần kinh đôi khi phối hợp với liệt phân kỳ đ ã đượcbiết là nguyên nhân gây liệt cơ trực ngoài. Tăng áp lực nội sọ là một nguyên nhânhay gặp nhất. Liệt dây thần kinh dạng (liệt dây TKVI) có thể giống với liệt phânkỳ. Bielshowsky đã quan sát một số ca liệt trực ngoài một hoặc hai bên với nhữngtriệu chứng điển hình những ca mà sau đó phát triển những bệnh cảnh mà khôngthể phân biệt được với liệt phân kỳ. Mức độ lác ngoài không đồng nhất lúc đầu vềsau trở thành lác ngoài đồng nhất. Một số ca biểu hiện liệt dây VI lành tính lúc đầuvới các triệu chứng liệt phân kỳ cũng đã được báo cáo. Hai hình thái khác của lác trong đồng nhất mắc phải ở người lớn cần phảiđược xem xét trong chẩn đoán phân biệt với liệt phân kỳ: lác trong b ù trừ và láctrong bù trừ định thị một mắt. Trong lác trong bù trừ, cơ chế hợp thị mà ban đầukiểm soát được độ lác sẽ giảm tác dụng đến mức độ lác ẩn sẽ trở thành lác hiện.Khi thăm khám cẩn thận sẽ thấy độ lác khi nhìn xa và độ lác khi nhìn gần nhưnhau, điều này khác hẳn với liệt phân kỳ. Một số xét nghiệm đặc biệt cần phảiđược tiến hành và đảm bảo cho việc đo chính xác như đo biên độ điều tiết khi nhìngần. Những bệnh nhân lác trong định thị một mắt có bù trừ cần tiến hành nghiêncứu một số xét nghiệm đặc biệt về cảm thụ và vận động thường có trong hộichứng định thị một mắt sẽ phân biệt được nó với liệt phân kỳ. Điều trị Điều trị nội khoa Điều trị song thị bằng lăng kính trước khi đề xuất đến việc điều trị bằngphẫu thuật. Lăng kính đặc biệt có lợi trong những trường hợp có độ lác nhỏ. Tuynhiên do sự khác nhau về độ lác khi nhìn xa và khi nhìn gần nên số kính cho nhìnxa và gần có khác nhau. Lăng kính chỉ cần thiết để điều chỉnh độ lác nhìn xa. Lăngkính Fresnel có thể gọt cho phù hợp với phần trên (nhìn xa) của kính hai tròng. Việc tập luyện là phương pháp phối hợp để điều trị rối loạn phân kỳ. Kếtquả điều trị tập luyện là làm tăng biên độ hợp thị phân kỳ và hạn chế độ lác hiệnvà giảm các triệu chứng chủ quan. Cần thiết phải luyện tập lại khi có triệu chứngtái phát. Vì kết quả điều trị bằng lăng kính và phẫu thuật rất khả quan nên việc tậpluyện ít cần đến và kết quả lâu dài cũng ít được đề cập. Phẫu thuật Phẫu thuật được đặt ra khi liệu pháp điều trị bằng lăng kính không hiệu quả.Sự can thiệp bằng phẫu thuật đối với loại lác này rất có hiệu quả. Đầu tiên cắt câncủa một hoặc hai cơ trực trong được tiến hành nhưng việc làm yếu các cơ quy tụđể điều trị liệt phân kỳ có thực sự thích hợp hay không ? Người ta đã tranh cãi làsẽ có lý hơn nếu ta rút ngắn hoặc tiến cơ trực ngoài. Trong điều trị liệt phân kỳ cótính logic là làm khoẻ cơ phân kỳ. Rút ngắn cơ trực ngoài cũng có tác dụng giảiquyết độ lác nhìn xa hơn độ lác nhìn gần. Rút ngắn cơ trực ngoài một hoặc hai bên đã được báo cáo là có hiệu quảtrong điều trị lác trong khi nhìn xa từ 8 đến 30D lăng kính. Khi rút ngắn cơ trựcngoài 5 đến 6 mm sẽ giải quyết độ lác nhìn xa 8 đến 18D lăng kính một cách antoàn. Một số bệnh nhân cần sử dụng lăng kính số thấp để tránh song thị trong thờikỳ hậu phẫu. Tác giả đã tiến hành rút ngắn hai cơ trực ngoài với kỹ thuật chỉnh chỉ trên 5bệnh nhân có độ lác tron g khi nhìn xa từ 16 đến 30D lăng kính. Kỹ thuật chỉnh chỉtạo cơ hội tốt cho việc điều chỉnh độ lác ngày trong giai đoạn hậu phẫu. Mục đíchcủa phẫu thuật là giải quyết hết độ lác hoặc còn lác ngoài nhỏ (5 đến 7PD), độ lácnày bệnh nhân có thể dễ dàng hợp thị được. Hiệu quả rút ngắn cơ trực ngoài sẽkém tác dụng dần theo thời gian. Bởi vậy chỉnh già hay non một chút biểu hiệntrong thời kỳ hậu phẫu có thể điều chỉnh bằng kính Fresnel cho tới ...