![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
LIFTING ĐỂ LÀM LÙI LẠI NHỮNG TÁC DỤNG CỦA TUỔI GIÀ
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 112.52 KB
Lượt xem: 2
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Chính vào cuối thế kỷ XIX mà những can thiệp ngoại khoa vì lý do thẩm mỹ đầu tiên đã được thực hiện. Chính một thầy thuốc trẻ người Đức gốc Do Thái, Jacques Joseph (1865-1934) đã thực hiện những rhinoplastie đầu tiên. Khi đó mục đích là để tống khứ khỏi bệnh nhân cái “mũi Do Thái” để có thể hòa lẫn tốt hơn vào đám đông người. Dần dần ông ta hoàn thiện các kỹ thuật nhằm không để lại một vết sẹo mổ nào mà người khác có thể nhìn thấy được. Và khi đó ông...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LIFTING ĐỂ LÀM LÙI LẠI NHỮNG TÁC DỤNG CỦA TUỔI GIÀ LIFTING ĐỂ LÀM LÙI LẠI NHỮNG TÁC DỤNG CỦA TUỔI GIÀNHỮNG ĐIỂM MỐCĐIỀU BIẾN (REMODELER). Chính vào cuối thế kỷ XIX mà những canthiệp ngoại khoa vì lý do thẩm mỹ đầu tiên đã được thực hiện. Chính mộtthầy thuốc trẻ người Đức gốc Do Thái, Jacques Joseph (1865-1934) đã thựchiện những rhinoplastie đầu tiên. Khi đó mục đích là để tống khứ khỏi bệnhnhân cái “mũi Do Thái” để có thể hòa lẫn tốt hơn vào đám đông người. Dầndần ông ta hoàn thiện các kỹ thuật nhằm không để lại một vết sẹo mổ nàomà người khác có thể nhìn thấy được. Và khi đó ông chứng thực rằng cácbệnh nhân của ông đã trở nên “sung sướng”CHIẾN TRANH. Đệ nhất thế chiến, với hệ lụy “gueules cassées” sẽ dẫn đếnmột sự phát triển những kỹ thuật mới nhằm mang lại cho các thương binhnhững gương mặt dễ coi chừng nào có thể được. Nhưng nhờ đó mà đã phátminh ra kỹ thuật lifting. Sarah Bernhardt là một trong những nghệ sĩ đầu tiênđã hưởng được kỹ thuật này.KHÔNG TRÔNG THẤY. Các kỹ thuật ngoại khoa thẩm mỹ cũng sẽ pháttriển với cùng mối quan tâm này: các sẹo mổ không được nhận thấy. Nhưthế, vào lúc Nhật Bản mở cửa với Tây Phương, nhiều người Nhật đi mổ mặtđể làm giống với những tiêu chuẩn phương tây bằng cách làm biến đổi mũivà các mi mắt. Ta sẽ tìm thấy sự tìm kiếm để hòa mình vào trong đám đôngnơi những người Việt di tản qua Hoa Kỳ trong những năm 1970.SẮC ĐẸP. Y khoa và ngoại khoa thẩm mỹ đã được dân chủ hóa rộng rãitrong hậu bán thế kỷ XX với những can thiệp ít tốn kém hơn, nhẹ nhànghơn, an toàn hơn. Đó luôn luôn là s ự tìm kiếm hạnh phúc nhưng lần nàyxuyên qua sắc đẹp và đấu tranh chống lại những dấu hiệu bên ngoài của sựlão hóa. Người ta ước tính rằng gần 100.000 người mỗi năm, ở Pháp, nhờđến những giải phẫu như vậy. Trong đó càng ngày càng có nhiều nhữngngười đàn ông. Sau những thái quá dẫn đến sự xuất hiện những gương mặtđược sửa đổi theo cùng một kiểu (lifté stéréotypé), ngoại khoa thẩm mỹ mớitừ nay mổ “sur mesure” (cá thể hóa). Các kỹ thuật ngoại khoa ngày càngđược cá thể hóa và tùy theo từng trường hợp (sur mesure).GƯƠNG MẶT. Đó là can thiệp biểu hiện (intervention emblématique) củangoại khoa thẩm mỹ (chirurgie esthétique). Mặc dầu việc nhờ đến kỹ thuậtlifting đã giảm nhiều nhường chỗ cho những phương pháp của y khoa thẩmmỹ (médecine esthétique), nhưng lifting vẫn là một kỹ thuật quy chiếuchống lại sự lão hóa của gương mặt. Vì không có tính chất cần thiết về mặt ykhoa, chỉ căn cứ trên một sự lựa chọn cá nhân, vì vậy lifting không đượcđảm nhiệm bởi Sécurité sociale. Vậy hầu như không thể biết bao nhiêu phẫuthuật đã được thực hiện mỗi năm ở Pháp. Vài người đưa ra những con sốbiến thiên từ 30.000 đến 50.000, hoặc ¼ những động tác của ngoại khoathẩm mỹ.Các kỹ thuật được sử dụng đã phát triển nhiều để theo kịp những mongmuốn của các bệnh nhân, cũng trên đà tiến triển. “Cứ 10 người thì hết chínngười mong muốn trẻ lại mà không bị nhìn thấy. Vậy kết quả phải rất là tựnhiên. Đó là lợi ích của lifting biplan, được phổ biến nhất ngày nay. Phươngthức này trước hết nhằm làm căng trở lại lớp cơ dưới da của hệ cơ-cân nông(smas : système musculo-aponévrotique superficiel) sau đó trải da lên trên,BS Vladimir Mitz (Paris), cha đẻ của kỹ thuật đã giải thích như vậy. Nhưngcứ mười bệnh nhân thì có một thật sự mong muốn biến đổi hình dạng củagương mặt. Khi đó phẫu thuật lóc (décollement) có thể được thực hiện sátxương chứ không phải ở mức các mô mềm, điều này cho phép ghép xương,trước khi dựng lại toàn bộ mặt nạ mặt (masque facial). Tuy nhiên, kỹ thuậtrất nặng nề này đã trở thành hiếm hoi. Người ta ưa thích hơn kỹ thuật đầutiên, được liên kết với ghép mô hay những chất làm đầy (“fillers”) có thể tanbiến đi để làm biến đổi gương mặt được điều biến (le modelé du visage).”Một biến thể “nhẹ” hơn của lifting, thường bị chỉ trích, chỉ nhằm kéo cácmặt sâu nhờ một lớp may để lại tại chỗ.ƯU TIÊN GÂY TÊ TẠI CHỖLifting đã trở thành một động tác toàn bộ, không chỉ bằng lòng với việc căngda trở lại. Với tuổi tác, gương mặt xệ xuống, nhưng cũng thường hõmxuống, và phương pháp làm đầy (comblement) có thể trở nên cần thiết. Talàm tăng một thể tích ở nơi này, ta làm giảm bằng hút mỡ (liposuccion) ởnơi khác, ta làm đầy một nếp nhăn hay một rãnh mũi-cằm (sillon naso-génien) quá hõm xuống, ta mở một cái nhìn bằng cách đưa đuôi lông màylên hay ta xóa bằng peeling ridule của môi... “Chúng ta đã bước vào kỷnguyên lifting cá thể hóa (à la carte), BS Sydney Ohana (Paris) đã đánh giánhư vậy. Mỗi gương mặt già đi một cách khác nhau. Nơi vài người, sự xệxuống có tính cách khúc đoạn (segmentaire) và chỉ liên quan đến đôi má xệ(bajoue), hay đuôi lông mày (queue du sourcil). Vậy có những động tácthích ứng với mỗi vùng: lifting vùng thái dương đối với lông mày (điềuchỉnh đuôi của các lông mày, các patte d’oie và nâng các gò má lên), liftinggiữa mặt (médio-facial) đối với rãnh mũi-cằm. Đôi khi, lifting rất tại chỗ vàchỉ đòi hỏi một sự lóc tối thiểu được thực hiện bằng nội soi.” Thường nhất,can thiệp đòi hỏi từ một đến 4 giờ, được thực hiện với gây tê tại chỗ hay tạichỗ-vùng nhẹ, hiếm hơn với gây mê tổng quát.Đối với BS Daniel Marchac (Paris), cũng có một kinh nghiệm dài lâu vềngoại khoa sọ-mặt (chirurgie cranio-faciale), lifting dùng để làm chậm sựlão hóa hơn là làm trẻ lại. “Một lifting được thực hiện tốt cho phép lợi được10 năm, với điều kiện phẫu thuật không bị nhìn thấy. Tốt nhất, đó là một sẹomổ ở vùng thái dương được che dấu bởi mái tóc, và một vết sẹo thẳng đứngđược che dấu sau tai, như thế tránh làm đưa lên đường cắm (ligned’implantation) của các sợi tóc.” Và đường râu nơi các người đàn ông, từnay chiếm 10% các bệnh nhân. Ngoại khoa thẩm mỹ là một nghề thủ côngtrong đó trình độ lão luyện của phẫu thuật viên có tính chất quyết định: phátxuất từ những kỹ thuật y hệt nhau, mỗi người tùy theo kinh nghiệm c ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LIFTING ĐỂ LÀM LÙI LẠI NHỮNG TÁC DỤNG CỦA TUỔI GIÀ LIFTING ĐỂ LÀM LÙI LẠI NHỮNG TÁC DỤNG CỦA TUỔI GIÀNHỮNG ĐIỂM MỐCĐIỀU BIẾN (REMODELER). Chính vào cuối thế kỷ XIX mà những canthiệp ngoại khoa vì lý do thẩm mỹ đầu tiên đã được thực hiện. Chính mộtthầy thuốc trẻ người Đức gốc Do Thái, Jacques Joseph (1865-1934) đã thựchiện những rhinoplastie đầu tiên. Khi đó mục đích là để tống khứ khỏi bệnhnhân cái “mũi Do Thái” để có thể hòa lẫn tốt hơn vào đám đông người. Dầndần ông ta hoàn thiện các kỹ thuật nhằm không để lại một vết sẹo mổ nàomà người khác có thể nhìn thấy được. Và khi đó ông chứng thực rằng cácbệnh nhân của ông đã trở nên “sung sướng”CHIẾN TRANH. Đệ nhất thế chiến, với hệ lụy “gueules cassées” sẽ dẫn đếnmột sự phát triển những kỹ thuật mới nhằm mang lại cho các thương binhnhững gương mặt dễ coi chừng nào có thể được. Nhưng nhờ đó mà đã phátminh ra kỹ thuật lifting. Sarah Bernhardt là một trong những nghệ sĩ đầu tiênđã hưởng được kỹ thuật này.KHÔNG TRÔNG THẤY. Các kỹ thuật ngoại khoa thẩm mỹ cũng sẽ pháttriển với cùng mối quan tâm này: các sẹo mổ không được nhận thấy. Nhưthế, vào lúc Nhật Bản mở cửa với Tây Phương, nhiều người Nhật đi mổ mặtđể làm giống với những tiêu chuẩn phương tây bằng cách làm biến đổi mũivà các mi mắt. Ta sẽ tìm thấy sự tìm kiếm để hòa mình vào trong đám đôngnơi những người Việt di tản qua Hoa Kỳ trong những năm 1970.SẮC ĐẸP. Y khoa và ngoại khoa thẩm mỹ đã được dân chủ hóa rộng rãitrong hậu bán thế kỷ XX với những can thiệp ít tốn kém hơn, nhẹ nhànghơn, an toàn hơn. Đó luôn luôn là s ự tìm kiếm hạnh phúc nhưng lần nàyxuyên qua sắc đẹp và đấu tranh chống lại những dấu hiệu bên ngoài của sựlão hóa. Người ta ước tính rằng gần 100.000 người mỗi năm, ở Pháp, nhờđến những giải phẫu như vậy. Trong đó càng ngày càng có nhiều nhữngngười đàn ông. Sau những thái quá dẫn đến sự xuất hiện những gương mặtđược sửa đổi theo cùng một kiểu (lifté stéréotypé), ngoại khoa thẩm mỹ mớitừ nay mổ “sur mesure” (cá thể hóa). Các kỹ thuật ngoại khoa ngày càngđược cá thể hóa và tùy theo từng trường hợp (sur mesure).GƯƠNG MẶT. Đó là can thiệp biểu hiện (intervention emblématique) củangoại khoa thẩm mỹ (chirurgie esthétique). Mặc dầu việc nhờ đến kỹ thuậtlifting đã giảm nhiều nhường chỗ cho những phương pháp của y khoa thẩmmỹ (médecine esthétique), nhưng lifting vẫn là một kỹ thuật quy chiếuchống lại sự lão hóa của gương mặt. Vì không có tính chất cần thiết về mặt ykhoa, chỉ căn cứ trên một sự lựa chọn cá nhân, vì vậy lifting không đượcđảm nhiệm bởi Sécurité sociale. Vậy hầu như không thể biết bao nhiêu phẫuthuật đã được thực hiện mỗi năm ở Pháp. Vài người đưa ra những con sốbiến thiên từ 30.000 đến 50.000, hoặc ¼ những động tác của ngoại khoathẩm mỹ.Các kỹ thuật được sử dụng đã phát triển nhiều để theo kịp những mongmuốn của các bệnh nhân, cũng trên đà tiến triển. “Cứ 10 người thì hết chínngười mong muốn trẻ lại mà không bị nhìn thấy. Vậy kết quả phải rất là tựnhiên. Đó là lợi ích của lifting biplan, được phổ biến nhất ngày nay. Phươngthức này trước hết nhằm làm căng trở lại lớp cơ dưới da của hệ cơ-cân nông(smas : système musculo-aponévrotique superficiel) sau đó trải da lên trên,BS Vladimir Mitz (Paris), cha đẻ của kỹ thuật đã giải thích như vậy. Nhưngcứ mười bệnh nhân thì có một thật sự mong muốn biến đổi hình dạng củagương mặt. Khi đó phẫu thuật lóc (décollement) có thể được thực hiện sátxương chứ không phải ở mức các mô mềm, điều này cho phép ghép xương,trước khi dựng lại toàn bộ mặt nạ mặt (masque facial). Tuy nhiên, kỹ thuậtrất nặng nề này đã trở thành hiếm hoi. Người ta ưa thích hơn kỹ thuật đầutiên, được liên kết với ghép mô hay những chất làm đầy (“fillers”) có thể tanbiến đi để làm biến đổi gương mặt được điều biến (le modelé du visage).”Một biến thể “nhẹ” hơn của lifting, thường bị chỉ trích, chỉ nhằm kéo cácmặt sâu nhờ một lớp may để lại tại chỗ.ƯU TIÊN GÂY TÊ TẠI CHỖLifting đã trở thành một động tác toàn bộ, không chỉ bằng lòng với việc căngda trở lại. Với tuổi tác, gương mặt xệ xuống, nhưng cũng thường hõmxuống, và phương pháp làm đầy (comblement) có thể trở nên cần thiết. Talàm tăng một thể tích ở nơi này, ta làm giảm bằng hút mỡ (liposuccion) ởnơi khác, ta làm đầy một nếp nhăn hay một rãnh mũi-cằm (sillon naso-génien) quá hõm xuống, ta mở một cái nhìn bằng cách đưa đuôi lông màylên hay ta xóa bằng peeling ridule của môi... “Chúng ta đã bước vào kỷnguyên lifting cá thể hóa (à la carte), BS Sydney Ohana (Paris) đã đánh giánhư vậy. Mỗi gương mặt già đi một cách khác nhau. Nơi vài người, sự xệxuống có tính cách khúc đoạn (segmentaire) và chỉ liên quan đến đôi má xệ(bajoue), hay đuôi lông mày (queue du sourcil). Vậy có những động tácthích ứng với mỗi vùng: lifting vùng thái dương đối với lông mày (điềuchỉnh đuôi của các lông mày, các patte d’oie và nâng các gò má lên), liftinggiữa mặt (médio-facial) đối với rãnh mũi-cằm. Đôi khi, lifting rất tại chỗ vàchỉ đòi hỏi một sự lóc tối thiểu được thực hiện bằng nội soi.” Thường nhất,can thiệp đòi hỏi từ một đến 4 giờ, được thực hiện với gây tê tại chỗ hay tạichỗ-vùng nhẹ, hiếm hơn với gây mê tổng quát.Đối với BS Daniel Marchac (Paris), cũng có một kinh nghiệm dài lâu vềngoại khoa sọ-mặt (chirurgie cranio-faciale), lifting dùng để làm chậm sựlão hóa hơn là làm trẻ lại. “Một lifting được thực hiện tốt cho phép lợi được10 năm, với điều kiện phẫu thuật không bị nhìn thấy. Tốt nhất, đó là một sẹomổ ở vùng thái dương được che dấu bởi mái tóc, và một vết sẹo thẳng đứngđược che dấu sau tai, như thế tránh làm đưa lên đường cắm (ligned’implantation) của các sợi tóc.” Và đường râu nơi các người đàn ông, từnay chiếm 10% các bệnh nhân. Ngoại khoa thẩm mỹ là một nghề thủ côngtrong đó trình độ lão luyện của phẫu thuật viên có tính chất quyết định: phátxuất từ những kỹ thuật y hệt nhau, mỗi người tùy theo kinh nghiệm c ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
kiến thức y học tài liệu ngành y bệnh thường gặp y học phổ thông lý thuyết y họcTài liệu liên quan:
-
Một số Bệnh Lý Thần Kinh Thường Gặp
7 trang 179 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 175 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 126 0 0 -
4 trang 118 0 0
-
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 111 0 0 -
SINH MẠCH TÁN (Nội ngoại thương biện hoặc luận)
2 trang 81 1 0 -
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 79 0 0 -
4 trang 72 0 0
-
2 trang 64 0 0
-
XÂY DỰNG VHI (VOICE HANDICAP INDEX) PHIÊN BẢN TIẾNG VIỆT
25 trang 55 0 0