Danh mục

Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Nhi khoa: Phát hiện người lành mang gen đột biến CYP21A2 và chẩn đoán trước sinh bệnh tăng sản thượng bẩm sinh thể thiếu enzym 21-hydroxylase

Số trang: 119      Loại file: pdf      Dung lượng: 5.67 MB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Thư Viện Số

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 119,000 VND Tải xuống file đầy đủ (119 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Luận án đầu tiên nghiên cứu về chẩn đoán trước sinh của bệnh TSTTBS thể thiếu 21-OH. Chẩn đoán trước sinh giúp chẩn đoán bệnh sớm cho các thai nhi gái bị bệnh, từ đây có kế hoạch điều trị trước sinh tránh bất thường bộ phận sinh dục sớm ngay từ những tuần đầu của thời kỳ mang thai và nếu là thai nhi trai bị bệnh sẽ điều trị ngay sau sinh.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Nhi khoa: Phát hiện người lành mang gen đột biến CYP21A2 và chẩn đoán trước sinh bệnh tăng sản thượng bẩm sinh thể thiếu enzym 21-hydroxylase 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Tăng sản thượng thận bẩm sinh (TSTTBS, Congenital AdrenalHyperplasia - CAH) là một trong những bệnh nội tiết di truyền. Bệnh do độtbiến các gen nằm trên cánh ngắn của nhiễm sắc thể (NST) số 6, mã hóa tổnghợp các enzym xúc tác quá trình chuyển hóa để tạo ra cortisol và aldosterontừ cholesterol của vỏ thượng thận [1]. Trong đó, thể thiếu enzym 21-hydroxylase (21-OH) hay gặp, với tỷ lệ hơn 90%. Enzym 21-OH được mãhóa tổng hợp bởi gen CYP21A2 (Cytochrome P450). Khi gen CYP21A2 bị độtbiến, enzym 21-OH không được tổng hợp gây rối loạn quá trình tổng hợpcortisol, aldosteron và testosteron làm cho nồng độ cortisol, aldosteron giảmvà testosteron tăng. Các rối loạn này dẫn đến bệnh cảnh lâm sàng đặc trưngcủa bệnh: rối loạn điện giải, mất muối, mất nước và nam hóa ở trẻ gái và dậythì sớm giả ở trẻ trai. Thể mất muối chiếm đa số nên bệnh nhân rất dễ bị trụytim mạch, sốc, nguy hiểm đến tính mạng, bệnh xuất hiện sớm ngay sau sinh.Trẻ sẽ tử vong nếu không được phát hiện và cấp cứu kịp thời. Thể nam hóađơn thuần gây bất thường cơ quan sinh dục; khi không được điều trị trẻ sẽ bịtàn tật ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của trẻ [2],[3],[4]. Hiện nay, bệnh được điều trị bằng liệu pháp hormon thay thế suốt đời.Một số nước đã áp dụng điều trị bổ sung enzym thiếu hụt và liệu pháp gencũng đã được nghiên cứu nhưng chưa được ứng dụng [5],[6]. Tỷ lệ mắc bệnh TSTTBS do thiếu enzym 21-OH trên thế giới là1/14.000-1/20.000 trẻ được sinh ra [4], [7]. Một nghiên cứu ở các nước châuÁ đưa ra tỷ lệ mắc bệnh TSTTBS ở Nhật Bản là: 1/21.000 và Đài Loan là:1/28.000 [7]. Ở Việt Nam, chưa có đề tài nghiên cứu về tỷ lệ mắc bệnh và tỷlệ người lành mang gen bệnh. Tuy nhiên tại Khoa Nội tiết -Chuyển hóa -Ditruyền Bệnh viện Nhi Trung ương, trung bình mỗi năm có 40 - 70 trẻ mớimắc được chẩn đoán và điều trị; tính tới nay khoa đang quản lý hơn 700 hồ sơ 2bệnh nhân. Từ những năm 1970, nhờ sự phát triển của kỹ thuật sinh học phân tử màngười ta đã phát hiện hơn 100 loại đột biến khác nhau trên gen CYP21A2 [1],[4]. Bệnh mang đặc tính di truyền đơn gen lặn, nhiễm sắc thể thường, tuântheo quy luật của Menden. Trong phả hệ của người bị bệnh, người mang gendị hợp tử có kiểu hình bình thường nhưng nguy cơ truyền gen bệnh cho con.Nếu hai người mang gen dị hợp kết hôn với nhau, khả năng 25% con sinh rasẽ bị bệnh. Trong quần thể, tỷ lệ mắc bệnh là 1/14.000, nhưng tỷ lệ ngườimang gen gây bệnh lại rất cao 1/60-1/83 [8],[9],[10]. Do vậy, nguy hiểm củabệnh di truyền đơn gen lặn là bệnh sẽ được di truyền từ thế hệ này sang thếhệ khác, nếu chúng ta không có biện pháp can thiệp phòng bệnh tích cực thìtỷ lệ bệnh trong quần thể sẽ tăng cao. Hiện nay, phương pháp phòng bệnh cóhiệu quả nhất là tư vấn di truyền. Việc phát hiện người lành mang gen bệnh vàchẩn đoán trước sinh, giúp chẩn đoán bệnh sớm cho thai nhi. Nếu thai nhi bịbệnh là con gái, sẽ tiến hành điều trị ngay từ trong thai và tiếp tục điều trịngay sau sinh, giúp ức chế tình trạng nam hóa có thể tránh được phẫu thuậtchỉnh hình sau sinh cho trẻ. Nếu thai nhi bị bệnh là con trai tiến hành điều trịngay sau sinh, để tránh cơn suy thượng thận cấp và đem lại sự phát triển bìnhthường về sau cho trẻ [1],[11],[12]. Nghiên cứu về bệnh TSTTBS đã được công bố nhiều ở Việt Nam, nhưngcác nghiên cứu chủ yếu tập trung vào phân tích về đặc điểm lâm sàng, xétnghiệm, đặc điểm di truyền, điều trị, đột biến gen CYP21A2, nghiên cứungười lành mang gen bệnh và chẩn đoán trước sinh bệnh TSTTBS còn rất ít. Hiện nay, nhiều kỹ thuật sinh học phân tử phát hiện đột biến gen đã đượcsử dụng, trong đó hai kỹ thuật hiện cho kết quả nhanh và chính xác là giảitrình tự gen để phát hiện đột biến điểm và MLPA (Multiplex Ligation-dependent Probe Amplification) để phát hiện xóa đoạn, lặp đoạn và chuyểnđoạn gen ở bệnh TSTTBS [11]. Việc phát hiện đột biến gen trên bệnh nhân và 3phát hiện người lành mang gen bệnh sẽ giúp: 1) Khẳng định chẩn đoán và chophép điều trị sớm, phòng tránh được cơn suy thượng thận cấp trong cáctrường hợp xét nghiệm về hormon không rõ ràng. 2) Tư vấn tiền hôn nhânnhằm giảm trẻ sinh ra bị mắc bệnh. 3) Chẩn đoán và điều trị trước sinh chothai nhi gái mắc bệnh để phòng và làm giảm bất thường bộ phận sinh dục gâymơ hồ giới tính sau sinh. Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn trên đề tài: “Phát hiệnngười lành mang gen đột biến CYP21A2 và chẩn đoán trước sinh bệnh tăngsản thượng bẩm sinh thể thiếu enzym 21-hydroxylase” được thực hiện với haimục tiêu: 1. Phát hiện người lành mang gen bệnh cho các thành viên gia đìnhbệnh nhân bị bệnh TSTTBS thể thiếu enzym 21-hydroxylase. 2. Chẩn đoán t ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: