Lưu ý khi dùng thuốc chứa sắt chữa thiếu máu
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 136.87 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Sắt có trong thức ăn, thuốc chứa sắt lại rẻ tiền, nhưng do chưa biết rõ vai trò của sắt cũng như cách ăn và dùng thuốc nên bệnh thiếu máu do thiếu sắt vẫn khá phổ biến ở người mang thai, trẻ em... Sắt rất cần cho quá trình ôxy hóa khử. Sắt có ở huyết cầu tố 57%, ở cơ và enzym của các tổ chức (xytocrom, peroxydaza, catalaza) 23% và dự trữ ở gan 20%. Khi vào dạ dày, sắt chuyển thành dạng hòa tan, hóa trị (2+) rồi đi xuống niêm mạc ruột. Tại đây,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lưu ý khi dùng thuốc chứa sắt chữa thiếu máu Lưu ý khi dùng thuốc chứa sắt chữa thiếu máu Sắt có trong thức ăn, thuốc chứa sắt lại rẻ tiền, nhưng do chưabiết rõ vai trò của sắt cũng như cách ăn và dùng thuốc nên bệnh thiếumáu do thiếu sắt vẫn khá phổ biến ở người mang thai, trẻ em... Sắt rất cần cho quá trình ôxy hóa khử. Sắt có ở huyết cầu tố 57%, ở cơvà enzym của các tổ chức (xytocrom, peroxydaza, catalaza) 23% và dự trữ ởgan 20%. Khi vào dạ dày, sắt chuyển thành dạng hòa tan, hóa trị (2+) rồi đixuống niêm mạc ruột. Tại đây, sắt (2+) được apoferitin (đóng vài trò nhưmột chiếc thuyền) nhận sắt (2+), chuyển thành sắt (3+) feritin, hấp thu vàobên trong. Tại đó, feritin giao lại sắt cho betaglobulin trở lại thành apoferitinquay về niêm mạc ruột nhận sắt (2+) mới, còn sắt từ máu lại đi vào tủyxương (để tạo hồng cầu), vào các cơ quan tổ chức (để cấu tạo men). Khithiếu sắt, cả ruột non, ruột già đều tham gia vào chu chuyển này. Nhưng khiđã đủ sắt, tác động của betaglobulin giảm, sắt ở dưới dạng feritin khôngchuyển thành apoferitin quay về niêm mạc ruột tiếp nhận sắt (2+) mới. Nhưthế: Cơ thể tự điều chỉnh sự hấp thu sắt. Nếu sắt không ở dạng h òa tan, cơthể không hấp thu được. Nếu chu chuyển trên bị trở ngại, cơ thể hấp thu sắtbị kém. Những lý do thiếu sắt thường gặp - Mất máu cấp tính (do bị thương) hay kéo dài (do rong kinh, bị giunmóc, trĩ). - Rối loạn tiêu hóa dẫn đến hấp thu sắt kém. - Có thai, nhu cầu sắt tăng cao nhưng ăn không đủ lượng thức ăn chứasắt cần thiết. - Trẻ em trong năm đầu, cần nhiều sắt nếu cho trẻ ăn không đúng cáchsẽ bị thiếu sắt. Thiếu sắt sẽ dẫn tới thiếu máu nhược sắc. Người lớn thì kém minhmẫn, dễ mệt, hay quên, hay chóng mặt, ù tai, năng suất lao động giảm, trẻem thì hay quấy khóc, vật vã, chán ăn, ngủ ít, giảm trí nhớ. Riêng người cóthai thiếu sắt sẽ ảnh hưởng không tốt đến thai nhi. Ngoài ra, trẻ thiếu máu dothiếu sắt còn làm giảm trương lực cơ, bắp thịt nhão, chậm biết ngồi, biết đi.Thiếu máu còn làm tim đập nhanh hơn (để đáp ứng nhu cầu cung cấp ôxycho các cơ quan tổ chức), nếu để lâu ngày sẽ dẫn đến suy tim. Bổ sung sắt phải đúng cách - Bổ sung bằng cách ăn: Có nhiều loại thực phẩm chứa sắt: Lượng sắt(tính bằng mg) trong 100 gam thực phẩm lần lượt là: tiết bò (52), men biakhô (16), gan lợn (10), thịt bò (2,7), trứng gà (2,2), cua biển (3,8), mực tươi(0,6), cá chép - cá trê - cá đối (0,8), mộc nhĩ (65), nấm hương khô (35), đậunành (11), vừng(10), đậu xanh (4,8), cần tây, cần ta (3), rau ngót (2,7), củ cải(2,9), rau dền trắng (6,1), rau dền đỏ (5,4), các loại rau thơm (3,8). Theo đó, thức ăn thực vật phần lớn chứa ít sắt hơn thức ăn động vật,thức ăn động vật sống dưới nước chứa ít sắt hơn loại động vật sống trên cạn.Cơ thể hấp thu được 10-15% sắt trong thức ăn động vật nhưng chỉ hấp thuđược 5% trong thức ăn thực vật (tính trung b ình chỉ 10%). Song trong thứcăn động vật thì sắt dạng hemoglobin thường chiếm chủ yếu (như trong tiết)lại rất khó hấp thu. Người ăn chay ròng sẽ thiếu sắt, nhưng người chỉ ănnước thịt bò ép cũng chỉ đưa vào cơ thể chất protein (giúp cho sự tổng hợpglobin) chứ không đưa chất sắt vào cơ thể được... Ngoài ăn thức ăn chứachất sắt, cần ăn các thức ăn có chất porphyrin (để tạo ra nhân pyrol) và chấtprotein (để có globin và vitamin) mới tạo ra được huyết cầu tố. Người chỉ ăn thức ăn thực vật tính ra có thể đủ lượng sắt nhưng vẫn bịthiếu máu do không tạo ra được huyết cầu tố. Các thức ăn quá giàu phospho sẽ gây kết tủa sắt làm giảm sự hấp thusắt. Vitamin C (và một số vitamin nhóm B như B6) giúp sự hấp thu sắt vàtổng hợp huyết cầu tố. Ngoài thức ăn thông thường còn có thực phẩm chức năng bổ sungchất sắt. Như vậy: muốn đủ sắt thì phải ăn một lượng sắt gấp 10 lần nhu cầukhuyến cáo (vì cơ thể chỉ hấp thu trung bình 10%), ăn dạng sắt dễ hòa tantrong cả động vật và thực vật, kèm theo phải ăn đủ chất đạm, không ăn quánhiều thức ăn giàu phospho và nên ăn thức ăn có vitamin C. - Bổ sung sắt bằng dùng thuốc: Khi thiếu sắt cấp tính hay kéo dài thì nhất thiết phải bổ sung bằngthuốc. Sau khi phục hồi đủ sắt, mới chuyển sang duy trì bằng chế độ ăn giàuchất sắt. Ngoài ra cần phải chữa các bệnh gây thiếu sắt (như tẩy giun móc). Có loại thuốc chứa sắt thuần túy (viên sắt fumarat, sắt gluconat, sắtsuccinat, sắt oxalat, sắt tatrat, sắt II sulfat). Có loại phối hợp chất sắt với acidfolic. Người có thai trong suốt thai kỳ cần uống viên sắt kết hợp với acidfolic. Khi dùng viên sắt thuần túy sẽ bị táo bón nên trong một số viên sắtngười ta cho thêm dược liệu có tính nhuận là đại hoàng, nhưng nếu dùngnhiều đại hoàng sẽ bị tiêu chảy, ngừng dùng sẽ hết. Để tránh hiện tượng nàykhông nên dùng quá liều lượng. Cũng như khi muốn dùng viên sắt có hiệuquả thì khôn ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lưu ý khi dùng thuốc chứa sắt chữa thiếu máu Lưu ý khi dùng thuốc chứa sắt chữa thiếu máu Sắt có trong thức ăn, thuốc chứa sắt lại rẻ tiền, nhưng do chưabiết rõ vai trò của sắt cũng như cách ăn và dùng thuốc nên bệnh thiếumáu do thiếu sắt vẫn khá phổ biến ở người mang thai, trẻ em... Sắt rất cần cho quá trình ôxy hóa khử. Sắt có ở huyết cầu tố 57%, ở cơvà enzym của các tổ chức (xytocrom, peroxydaza, catalaza) 23% và dự trữ ởgan 20%. Khi vào dạ dày, sắt chuyển thành dạng hòa tan, hóa trị (2+) rồi đixuống niêm mạc ruột. Tại đây, sắt (2+) được apoferitin (đóng vài trò nhưmột chiếc thuyền) nhận sắt (2+), chuyển thành sắt (3+) feritin, hấp thu vàobên trong. Tại đó, feritin giao lại sắt cho betaglobulin trở lại thành apoferitinquay về niêm mạc ruột nhận sắt (2+) mới, còn sắt từ máu lại đi vào tủyxương (để tạo hồng cầu), vào các cơ quan tổ chức (để cấu tạo men). Khithiếu sắt, cả ruột non, ruột già đều tham gia vào chu chuyển này. Nhưng khiđã đủ sắt, tác động của betaglobulin giảm, sắt ở dưới dạng feritin khôngchuyển thành apoferitin quay về niêm mạc ruột tiếp nhận sắt (2+) mới. Nhưthế: Cơ thể tự điều chỉnh sự hấp thu sắt. Nếu sắt không ở dạng h òa tan, cơthể không hấp thu được. Nếu chu chuyển trên bị trở ngại, cơ thể hấp thu sắtbị kém. Những lý do thiếu sắt thường gặp - Mất máu cấp tính (do bị thương) hay kéo dài (do rong kinh, bị giunmóc, trĩ). - Rối loạn tiêu hóa dẫn đến hấp thu sắt kém. - Có thai, nhu cầu sắt tăng cao nhưng ăn không đủ lượng thức ăn chứasắt cần thiết. - Trẻ em trong năm đầu, cần nhiều sắt nếu cho trẻ ăn không đúng cáchsẽ bị thiếu sắt. Thiếu sắt sẽ dẫn tới thiếu máu nhược sắc. Người lớn thì kém minhmẫn, dễ mệt, hay quên, hay chóng mặt, ù tai, năng suất lao động giảm, trẻem thì hay quấy khóc, vật vã, chán ăn, ngủ ít, giảm trí nhớ. Riêng người cóthai thiếu sắt sẽ ảnh hưởng không tốt đến thai nhi. Ngoài ra, trẻ thiếu máu dothiếu sắt còn làm giảm trương lực cơ, bắp thịt nhão, chậm biết ngồi, biết đi.Thiếu máu còn làm tim đập nhanh hơn (để đáp ứng nhu cầu cung cấp ôxycho các cơ quan tổ chức), nếu để lâu ngày sẽ dẫn đến suy tim. Bổ sung sắt phải đúng cách - Bổ sung bằng cách ăn: Có nhiều loại thực phẩm chứa sắt: Lượng sắt(tính bằng mg) trong 100 gam thực phẩm lần lượt là: tiết bò (52), men biakhô (16), gan lợn (10), thịt bò (2,7), trứng gà (2,2), cua biển (3,8), mực tươi(0,6), cá chép - cá trê - cá đối (0,8), mộc nhĩ (65), nấm hương khô (35), đậunành (11), vừng(10), đậu xanh (4,8), cần tây, cần ta (3), rau ngót (2,7), củ cải(2,9), rau dền trắng (6,1), rau dền đỏ (5,4), các loại rau thơm (3,8). Theo đó, thức ăn thực vật phần lớn chứa ít sắt hơn thức ăn động vật,thức ăn động vật sống dưới nước chứa ít sắt hơn loại động vật sống trên cạn.Cơ thể hấp thu được 10-15% sắt trong thức ăn động vật nhưng chỉ hấp thuđược 5% trong thức ăn thực vật (tính trung b ình chỉ 10%). Song trong thứcăn động vật thì sắt dạng hemoglobin thường chiếm chủ yếu (như trong tiết)lại rất khó hấp thu. Người ăn chay ròng sẽ thiếu sắt, nhưng người chỉ ănnước thịt bò ép cũng chỉ đưa vào cơ thể chất protein (giúp cho sự tổng hợpglobin) chứ không đưa chất sắt vào cơ thể được... Ngoài ăn thức ăn chứachất sắt, cần ăn các thức ăn có chất porphyrin (để tạo ra nhân pyrol) và chấtprotein (để có globin và vitamin) mới tạo ra được huyết cầu tố. Người chỉ ăn thức ăn thực vật tính ra có thể đủ lượng sắt nhưng vẫn bịthiếu máu do không tạo ra được huyết cầu tố. Các thức ăn quá giàu phospho sẽ gây kết tủa sắt làm giảm sự hấp thusắt. Vitamin C (và một số vitamin nhóm B như B6) giúp sự hấp thu sắt vàtổng hợp huyết cầu tố. Ngoài thức ăn thông thường còn có thực phẩm chức năng bổ sungchất sắt. Như vậy: muốn đủ sắt thì phải ăn một lượng sắt gấp 10 lần nhu cầukhuyến cáo (vì cơ thể chỉ hấp thu trung bình 10%), ăn dạng sắt dễ hòa tantrong cả động vật và thực vật, kèm theo phải ăn đủ chất đạm, không ăn quánhiều thức ăn giàu phospho và nên ăn thức ăn có vitamin C. - Bổ sung sắt bằng dùng thuốc: Khi thiếu sắt cấp tính hay kéo dài thì nhất thiết phải bổ sung bằngthuốc. Sau khi phục hồi đủ sắt, mới chuyển sang duy trì bằng chế độ ăn giàuchất sắt. Ngoài ra cần phải chữa các bệnh gây thiếu sắt (như tẩy giun móc). Có loại thuốc chứa sắt thuần túy (viên sắt fumarat, sắt gluconat, sắtsuccinat, sắt oxalat, sắt tatrat, sắt II sulfat). Có loại phối hợp chất sắt với acidfolic. Người có thai trong suốt thai kỳ cần uống viên sắt kết hợp với acidfolic. Khi dùng viên sắt thuần túy sẽ bị táo bón nên trong một số viên sắtngười ta cho thêm dược liệu có tính nhuận là đại hoàng, nhưng nếu dùngnhiều đại hoàng sẽ bị tiêu chảy, ngừng dùng sẽ hết. Để tránh hiện tượng nàykhông nên dùng quá liều lượng. Cũng như khi muốn dùng viên sắt có hiệuquả thì khôn ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
kiến thức y học cách dùng thuốc y học về thuốc dược phẩm sử dụng dược phẩmGợi ý tài liệu liên quan:
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 167 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 125 0 0 -
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 109 0 0 -
4 trang 107 0 0
-
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 76 0 0 -
XÂY DỰNG VHI (VOICE HANDICAP INDEX) PHIÊN BẢN TIẾNG VIỆT
25 trang 53 0 0 -
Những bí quyết chữa bệnh từ đậu phụ
5 trang 48 0 0 -
Kiến thức y học - Sức khỏe quý hơn vàng: Phần 1
177 trang 47 0 0 -
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, KỸ NĂNG SỬ DỤNG ORESOL
22 trang 45 0 0 -
Nước ép quả: Nguồn dinh dưỡng cần thiết cho nhân viên văn phòng
3 trang 42 0 0