Danh mục

Lý Thái Tông - Lý Phật Mã

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 145.30 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Lý Thái Tông (1000 – 1054, tên thật Lý Phật Mã , còn có tên khác là Lý Đức Chính ) là vị hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cai trị từ năm 1028 đến năm 1054. Ông sinh tại kinh đô Hoa Lư, Ninh Bình, ViệtNam. Giai thoại Lý Thái Tông là con trưởng của Vua Lý Thái Tổ. Các nhà nghiên cứu lịch sử như Trần Bá Chí theo các thần phả hán nôm ở cố đô Hoa Lư khẳng định mẹ Lý Phật Mã là Lê Thị Phất...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lý Thái Tông - Lý Phật Mã Lý Thái Tông - Lý Phật Mã Lý Thái Tông (1000 – 1054, tên thật Lý Phật Mã , còn có tên khác là Lý ĐứcChính ) là vị hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cai trị từnăm 1028 đến năm 1054. Ông sinh tại kinh đô Hoa Lư, Ninh Bình, ViệtNam. Giai thoại Lý Thái Tông là con trưởng của Vua Lý Thái Tổ. Các nhà nghiên cứu lịch sửnhư Trần Bá Chí theo các thần phả hán nôm ở cố đô Hoa Lư khẳng định mẹ Lý PhậtMã là Lê Thị Phất Ngân, con gái Lê Đại Hành và Dương Vân Nga[1].[2][3] Lý Thái Tông sinh ngày 26 tháng 6 âm lịch năm Canh Tý, niên hiệu Ứng Thiênthứ 7 thời Tiền Lê (tức 29 tháng 7 năm 1000) ở chùa Duyên Ninh trong kinh đô HoaLư (Ninh Bình ngày nay). Theo Đại Việt sử ký toàn thư, khi vua mới sinh, ở phủTrường Yên có con trâu của nhà dân tự nhiên thay sừng khác, người có trâu ấy cho làđiềm không lành, lấy làm lo ngại. Có người giỏi chiêm nghiệm đi qua nhà người ấycười mà nói rằng: Đó là điềm đổi mới thôi, can dự gì đến nhà anh thì người ấy mớihết lo.[4] Tương truyền thuở nhỏ ông đã có 7 nốt ruồi sau gáy như chòm sao thất tinh(sao Bắc Đẩu). Thái tử Năm 13 tuổi (1012), ông được lập làm Đông cung Thái tử, Năm Thuận Thiênthứ 3 ông được phong làm Khai Thiện Vương, lập phủ ở ngoài nội cung để được làmquen với các quan lại và dân chúng. Trong thời gian làm Thái tử, ông nhiều lần đượccử làm tướng cầm quân đi dẹp loạn và đều lập được công. Năm 1019, Ông được trao quyền nguyên soái, cầm quân vào nam đánh ChiêmThành. Năm 1023, ông cầm quân đi đánh Phong châu. Năm 1025, ông đi đánh Diễnchâu. Năm 1027, ông lên phía bắc đánh châu Thất Nguyên (Lạng Sơn). Lên ngôi Năm 1028, Lý Thái Tổ mất, chưa tế táng xong, thì các hoàng tử là Vũ ĐứcVương, Dực Thánh Vương và Đông Chinh Vương đã đem quân đến vây thành đểtranh ngôi của Thái tử. Bấy giờ các quan đứng đầu là Lý Nhân Nghĩa xin Thái tử cho đem quân rathành quyết được thua một trận. Khi quân của Thái tử và quân các vương đối trận, thìquan Vũ vệ tướng quân là Lê Phụng Hiểu rút gươm ra chỉ vào Vũ Đức Vương mà bảorằng: Các người dòm ngó ngôi cao, khinh dể tự quân, trên quên ơn tiên đế, dưới tráinghĩa tôi con, vậy Phụng Hiểu xin dâng nhát gươm này! Nói xong tướng quân Lê Phụng Hiểu chạy xông vào chém Vũ Đức Vương ởtrận tiền. Quân các vương trông thấy sợ hãi bỏ chạy cả. Dực Thánh Vương và ĐôngChinh Vương cũng phải chạy trốn. Dẹp xong loạn Tam vương, ngày Kỷ Hợi (tức 1 tháng 4 năm 1028), Thái tử LýPhật Mã lên ngôi, tức là vua Lý Thái Tông. Dực Thánh Vương và Đông Chinh Vương xin về chịu tội. Thái Tông nghĩ tìnhcốt nhục bèn tha tội cho, và lại phục chức cũ cho cả hai người. Cũng vì sự phản nghịch ấy cho nên vua Thái Tông mới lập lệ: cứ hàng năm,các quan phải đến đền Đồng Cổ (ở làng Yên Thái, Hà Nội) làm lễ đọc lời thề rằng: Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, ai bất hiếu bất trung, xin quỉ thần làmtội. Các quan ai trốn không đến thề, phải phạt 50 trượng. Thời Lý Thái Tông đặt sáu niên hiệu, bao gồm: Thiên Thành (1028-1033) Thông Thụy (1034-1038) Càn Phù Hữu Đạo (1039-1041) Minh Đạo (1042-1043) Thiên Cảm Thánh Vũ (1044-1048) Sùng Hưng Đại Bảo (1049-1054) Đánh dẹp Lý Thái Tông là người có thiên tư đĩnh ngộ, thông lục nghệ, tinh thao lược, gặplúc trong nước có nhiều giặc giã, nhưng ông đã quen việc dùng binh, cho nên ôngthường thân chinh đi đánh đông dẹp bắc. Thời bấy giờ nhà vua không đặt quan tiết trấn; phàm việc binh việc dân ở cácchâu, là đều giao cả cho người châu mục. Còn ở mạn thượng du thì có người tù trưởngquản lĩnh. Cũng vì quyền những người ấy to quá, cho nên thường hay có sự phảnnghịch. Lại có những nước lân bang như Chiêm Thành và Ai Lao (Lào) thường haysang quấy nhiễu, bởi vậy cho nên sự đánh dẹp thời Lý Thái Tông rất nhiều. Cha con họ Nùng Bài chi tiết: Nùng Trí Cao Châu có những người Nùng thường hay làm loạn. Năm 1038, Nùng Tồn Phúcở châu Quảng Nguyên (Lạng Sơn) làm phản, tự xưng là Chiêu Thành hoàng đế, lậpA Nùng làm Minh Đức Hoàng hậu, đặt quốc hiệu là Trường Sinh quốc rồi đemquân đi đánh phá các nơi. Nhà Tống phong Lý Thái Tông làm Nam Bình Vương.[5] Tháng 2 năm 1039, vua thân chinh đi đánh, Nùng Tồn Phúc và con là Nùng TríThông bị bắt đem về kinh đô, sau đó bị giết chết. A Nùng và người con khác là NùngTrí Cao chạy thoát. Năm 1041, Nùng Trí Cao cùng mẹ là A Nùng về lấy châu Thảng Do (gần châuQuảng Nguyên) lập ra nước Đại Lịch. Thái Tông sai tướng lên đánh bắt được đem vềThăng Long. Nhưng vua nghĩ trước đã giết cha và anh, nay thương tình không giết,tha cho về và lại phong cho làm Quảng Nguyên mục. Sau, Lý Thái Tông lại gia phongcho tước Thái bảo. Năm 1048, Trí Cao lại làm phản, chiếm giữ động Vật Ác (phía tây Cao Bằng).L ...

Tài liệu được xem nhiều: