![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Lý thuyết thiết kế cơ chế
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 123.86 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
“Lý thuyết thiết kế cơ chế” (mechanism design theory) đã đem lại giải Nobel kinh tế năm 2007 cho 3 giáo sư người Mỹ.Đây là bài viết của tác giả Trần Hữu Dũng trình bày cho công chúng một cách đơn giản dễ hiểu, về một lý thuyết phức tạp khó hiểu này.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lý thuyết thiết kế cơ chế Lý thuyết thiết kế cơ chế“Lý thuyết thiết kế cơ chế” (mechanism design theory) đã đem lạigiải Nobel kinh tế năm 2007 cho 3 giáo sư người Mỹ.Đây là bàiviết của tác giả Trần Hữu Dũng trình bày cho công chúng mộtcách đơn giản dễ hiểu, về một lý thuyết phức tạp khó hiểu này.Cơ cấu là một “trò chơi”Nhớ lại rằng theo Adam Smith thì thị trường sẽ đem người muavà người bán lại với nhau. Vô số người bán sẽ gặp vô số ngườimua, “bàn tay vô hình” sẽ “hướng dẫn” mọi giao dịch, người bánsẽ bán hàng của họ ở giá cao nhất mà người mua chấp thuận, ainấy đều thoả mãn, tài nguyên sẽ được phân bố một cách hữuhiệu nhất.Nhưng... thực tế hầu như chẳng bao giờ được như thế. Đànhrằng thị trường rất là hữu hiệu, song chúng chỉ vận hành tối hảotrong những điều kiện vô cùng khắt khe mà thực tế ít khi (nếu cókhi nào!) hội đủ. Chẳng hạn như: người mua và người bán lắmlúc không tìm ra nhau, hoặc một người mua tìm cách đầu cơ,hoặc người bán chính là nhà nước (mà mục tiêu không (chỉ) là lợinhuận)...Rồi, nếu thông tin mà người mua hoặc người bán là “riêng tư” -nghĩa là chỉ người ấy biết - ví dụ như chất lượng của món hàng,hoặc mức giá tối đa mà họ có thể chấp nhận (nếu là người mua)hoặc tối thiểu (nếu là người bán), thì thị trường có thể “thất bại”.Thậm chí buôn bán không thể xảy ra.Ví dụ: công ty nọ có thể nói rằng họ chỉ chấp thuận cung cấp mộtdịch vụ với giá 200 USD, trong lúc mà thật sự họ có thể đủ lợinhuận với giá 150 USD. Một công ty khác có thể nói rằng họ chỉchịu mua dịch vụ ấy với giá 100 USD, dù (trong thâm tâm, khôngnói ra) họ sẵn sàng trả đến 170 USD. Hiển nhiên, hai công ty nàycó thể mua bán với nhau nếu giá dịch vụ ấy rơi vào khoảng từ150 - 170 USD. Nhưng sự buôn bán này có thể không xảy ra bởilẽ cả hai đều có động lực giữ kín cái “thế” của họ.Thuyết “thiết kế cơ chế” bắt nguồn từ câu hỏi: cơ chế nào là tốtnhất (đối với một chủ thể nhất định, có thể là nhà nước, có thể làcông ty, hay bất kỳ một tổ chức nào khác) để phân bố hàng hoávà dịch vụ khi mà mọi người đều (a) có những “thông tin riêngtư”, và (b) hành xử theo tư lợi của mình.Cần nói rõ là chữ “cơ chế” (mechanism), ít ra vào giai đoạn đầucủa dòng lý thuyết này, là do Hurwicz dùng trong một nghĩa cựckỳ chuyên môn. Ông định nghĩa “cơ chế” là “một trò chơi trong đócác “tay chơi” gửi “thông điệp” cho nhau hoặc/và đến một “trungtâm thông điệp”, và có một quy luật định trước để ghép một hậuquả nhất định (tỷ như một cách phân bố hàng hoá và dịch vụ) đếnmỗi tập hợp thông điệp nhận được”. Đấu giá, chẳng hạn, là một“cơ chế” theo nghĩa này.Lý thuyết thiết kế cơ chế đi vào trung tâm bài toán căn bản nhấtcủa kinh tế học: làm sao “sắp xếp” những định chế, những luậtchơi kinh tế để, khi mỗi người cư xử thuần vì tư lợi, kết quả sẽ tốihảo (theo một nghĩa nhất định) cho mọi người liên hệ.Trong kinh tế học hiện đại, danh từ “cơ chế” thường được dùngmột cách “thoáng” hơn trong nghĩa chuẩn xác nguyên thuỷ củaHurwicz. Nó có thể ám chỉ mọi thể chế và “luật chơi” chi phối cácsinh hoạt kinh tế, từ bộ kế hoạch trong một nền kinh tế chỉ huy,đến tổ chức nội bộ một công ty, đến buôn bán trên thị trường...Cơ chế tìm điểm cân bằng tối hảoNăm 1972, Leonid Hurwicz đưa vào khoa học kinh tế một ý niệmquan trọng, đó là “sự tương thích động lực” (incentivecompatibility). Theo định nghĩa của ông, một tiến trình sẽ có tính“tương thích động lực” khi tất cả những người tham dự tiến trìnhấy đạt được mức thoả mãn cao nhất nếu họ thành thực tiết lộnhững thông tin tư riêng của họ.Ý niệm này, và nhất là cách nó được “toán hoá” một cách giản dịvà cực kỳ “trang nhã” trong tay Hurwicz, là nền móng của toàn bộlý thuyết thiết kế cơ chế.Định vị thuyết này trong dòng tiến hoá của tư tưởng kinh tế thì cóthể nói rằng Hurwicz (một người gốc Nga, sinh năm 1917) bị ảnhhưởng của Friedrich Hayek (Nobel 1974) lẫn đối thủ của Hayek làOskar Lange về tính khả thi của kế hoạch hoá tập trung.Oskar Lange lý luận rằng những công cụ thị trường có thể đượcdùng trong kế hoạch hoá tập trung. Còn Hayek thì cho rằng việcấy là ảo tưởng, vì kế hoạch hoá kiểu đó sẽ cần một số lượngthông tin khổng lồ - hầu như vô tận.Hơn nữa, thông tin, chính chúng, sẽ tiêu tốn tài nguyên. Có thểxem công trình của Hurwicz như tiếp nối nỗ lực của Hayek đểchứng minh rằng thị trường là hữu hiệu hơn kế hoạch nhà nướctrong phân bố nguồn lực kinh tế.Nhưng Hurwicz đi xa hơn Hayek, bởi vì theo ông thì thị trườngcũng không thể hoàn hảo. Theo Hurwicz, nhược điểm căn bảncủa kinh tế kế hoạch không chỉ là sự vô cùng phức tạp của nềnkinh tế, mà kế hoạch hoá là một ảo tưởng vì con người nhậnđược những khuyến khích “sai” (đối với mục tiêu của kế hoạch).Và vì sinh hoạt kinh tế là đầy dẫy những sự “bất đối xứng thôngtin”. Nói nôm na là người này biết nhiều hơn người kia về mặtnào đó của giao dịch, và không muốn tiết lộ thông tin ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lý thuyết thiết kế cơ chế Lý thuyết thiết kế cơ chế“Lý thuyết thiết kế cơ chế” (mechanism design theory) đã đem lạigiải Nobel kinh tế năm 2007 cho 3 giáo sư người Mỹ.Đây là bàiviết của tác giả Trần Hữu Dũng trình bày cho công chúng mộtcách đơn giản dễ hiểu, về một lý thuyết phức tạp khó hiểu này.Cơ cấu là một “trò chơi”Nhớ lại rằng theo Adam Smith thì thị trường sẽ đem người muavà người bán lại với nhau. Vô số người bán sẽ gặp vô số ngườimua, “bàn tay vô hình” sẽ “hướng dẫn” mọi giao dịch, người bánsẽ bán hàng của họ ở giá cao nhất mà người mua chấp thuận, ainấy đều thoả mãn, tài nguyên sẽ được phân bố một cách hữuhiệu nhất.Nhưng... thực tế hầu như chẳng bao giờ được như thế. Đànhrằng thị trường rất là hữu hiệu, song chúng chỉ vận hành tối hảotrong những điều kiện vô cùng khắt khe mà thực tế ít khi (nếu cókhi nào!) hội đủ. Chẳng hạn như: người mua và người bán lắmlúc không tìm ra nhau, hoặc một người mua tìm cách đầu cơ,hoặc người bán chính là nhà nước (mà mục tiêu không (chỉ) là lợinhuận)...Rồi, nếu thông tin mà người mua hoặc người bán là “riêng tư” -nghĩa là chỉ người ấy biết - ví dụ như chất lượng của món hàng,hoặc mức giá tối đa mà họ có thể chấp nhận (nếu là người mua)hoặc tối thiểu (nếu là người bán), thì thị trường có thể “thất bại”.Thậm chí buôn bán không thể xảy ra.Ví dụ: công ty nọ có thể nói rằng họ chỉ chấp thuận cung cấp mộtdịch vụ với giá 200 USD, trong lúc mà thật sự họ có thể đủ lợinhuận với giá 150 USD. Một công ty khác có thể nói rằng họ chỉchịu mua dịch vụ ấy với giá 100 USD, dù (trong thâm tâm, khôngnói ra) họ sẵn sàng trả đến 170 USD. Hiển nhiên, hai công ty nàycó thể mua bán với nhau nếu giá dịch vụ ấy rơi vào khoảng từ150 - 170 USD. Nhưng sự buôn bán này có thể không xảy ra bởilẽ cả hai đều có động lực giữ kín cái “thế” của họ.Thuyết “thiết kế cơ chế” bắt nguồn từ câu hỏi: cơ chế nào là tốtnhất (đối với một chủ thể nhất định, có thể là nhà nước, có thể làcông ty, hay bất kỳ một tổ chức nào khác) để phân bố hàng hoávà dịch vụ khi mà mọi người đều (a) có những “thông tin riêngtư”, và (b) hành xử theo tư lợi của mình.Cần nói rõ là chữ “cơ chế” (mechanism), ít ra vào giai đoạn đầucủa dòng lý thuyết này, là do Hurwicz dùng trong một nghĩa cựckỳ chuyên môn. Ông định nghĩa “cơ chế” là “một trò chơi trong đócác “tay chơi” gửi “thông điệp” cho nhau hoặc/và đến một “trungtâm thông điệp”, và có một quy luật định trước để ghép một hậuquả nhất định (tỷ như một cách phân bố hàng hoá và dịch vụ) đếnmỗi tập hợp thông điệp nhận được”. Đấu giá, chẳng hạn, là một“cơ chế” theo nghĩa này.Lý thuyết thiết kế cơ chế đi vào trung tâm bài toán căn bản nhấtcủa kinh tế học: làm sao “sắp xếp” những định chế, những luậtchơi kinh tế để, khi mỗi người cư xử thuần vì tư lợi, kết quả sẽ tốihảo (theo một nghĩa nhất định) cho mọi người liên hệ.Trong kinh tế học hiện đại, danh từ “cơ chế” thường được dùngmột cách “thoáng” hơn trong nghĩa chuẩn xác nguyên thuỷ củaHurwicz. Nó có thể ám chỉ mọi thể chế và “luật chơi” chi phối cácsinh hoạt kinh tế, từ bộ kế hoạch trong một nền kinh tế chỉ huy,đến tổ chức nội bộ một công ty, đến buôn bán trên thị trường...Cơ chế tìm điểm cân bằng tối hảoNăm 1972, Leonid Hurwicz đưa vào khoa học kinh tế một ý niệmquan trọng, đó là “sự tương thích động lực” (incentivecompatibility). Theo định nghĩa của ông, một tiến trình sẽ có tính“tương thích động lực” khi tất cả những người tham dự tiến trìnhấy đạt được mức thoả mãn cao nhất nếu họ thành thực tiết lộnhững thông tin tư riêng của họ.Ý niệm này, và nhất là cách nó được “toán hoá” một cách giản dịvà cực kỳ “trang nhã” trong tay Hurwicz, là nền móng của toàn bộlý thuyết thiết kế cơ chế.Định vị thuyết này trong dòng tiến hoá của tư tưởng kinh tế thì cóthể nói rằng Hurwicz (một người gốc Nga, sinh năm 1917) bị ảnhhưởng của Friedrich Hayek (Nobel 1974) lẫn đối thủ của Hayek làOskar Lange về tính khả thi của kế hoạch hoá tập trung.Oskar Lange lý luận rằng những công cụ thị trường có thể đượcdùng trong kế hoạch hoá tập trung. Còn Hayek thì cho rằng việcấy là ảo tưởng, vì kế hoạch hoá kiểu đó sẽ cần một số lượngthông tin khổng lồ - hầu như vô tận.Hơn nữa, thông tin, chính chúng, sẽ tiêu tốn tài nguyên. Có thểxem công trình của Hurwicz như tiếp nối nỗ lực của Hayek đểchứng minh rằng thị trường là hữu hiệu hơn kế hoạch nhà nướctrong phân bố nguồn lực kinh tế.Nhưng Hurwicz đi xa hơn Hayek, bởi vì theo ông thì thị trườngcũng không thể hoàn hảo. Theo Hurwicz, nhược điểm căn bảncủa kinh tế kế hoạch không chỉ là sự vô cùng phức tạp của nềnkinh tế, mà kế hoạch hoá là một ảo tưởng vì con người nhậnđược những khuyến khích “sai” (đối với mục tiêu của kế hoạch).Và vì sinh hoạt kinh tế là đầy dẫy những sự “bất đối xứng thôngtin”. Nói nôm na là người này biết nhiều hơn người kia về mặtnào đó của giao dịch, và không muốn tiết lộ thông tin ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
đầu tư chứng khoán các loại hình cổ phiếu tìm hiểu cổ phiếu kĩ năng chơi cổ phiếu nghệ thuật chơi cổ phiếuTài liệu liên quan:
-
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định đầu tư chứng khoán của sinh viên tại Tp. Hồ Chí Minh
7 trang 576 12 0 -
Các yếu tố tác động tới quyết định đầu tư chứng khoán của giới trẻ Việt Nam
7 trang 314 0 0 -
Làm giá chứng khoán qua những con sóng nhân tạo
3 trang 301 0 0 -
Luật chứng khoán Nghị định số 114/2008/NĐ - CP
10 trang 243 0 0 -
Nhiều công ty chứng khoán ngược dòng suy thoái
6 trang 211 0 0 -
Quản trị danh mục đầu tư: Cổ phiếu-Chương 1: Mô hình C.A.P.M
63 trang 161 0 0 -
Giải thuật ngữ Chứng khoán, Môi giới, Đầu tư
217 trang 151 0 0 -
12 trang 118 0 0
-
Ebook 9 quy tắc đầu tư tiền bạc để trở thành triệu: Phần 1
125 trang 116 0 0 -
Vài nét về chân dung ông trùm dầu mỏ quốc tế
7 trang 101 0 0