Mấy cành Dương QuanTrong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, lúc Kiều tiễn Thúc Sinh trở về quê cũ huyện Vô Tích, tỉnh Giang Tô với vợ cả là Hoạn Thư, có câu: Tiễn đưa một chén quan hà, Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình. Sông Tần một dải xanh xanh, Loi thoi bờ liễu, mấy cành Dương Quan. "Xuân đình", "Cao đình" chưa từng tìm được nguyên ngữ, nhưng theo Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu thì tạm cho rằng đại khái "Xuân đình" là chỗ hợp vui; "Cao đình" là chỗ chia rẽ....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mấy cành Dương Quan Mấy cành Dương QuanTrong tác phẩm Đoạn trường tân thanh của cụ Nguyễn Du, lúc Kiều tiễn ThúcSinh trở về quê cũ huyện Vô Tích, tỉnh Giang Tô với vợ cả là Hoạn Thư, có câu:Tiễn đưa một chén quan hà,Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình.Sông Tần một dải xanh xanh,Loi thoi bờ liễu, mấy cành Dương Quan.Xuân đình, Cao đình chưa từng tìm được nguyên ngữ, nhưng theo Tản ĐàNguyễn Khắc Hiếu thì tạm cho rằng đại khái Xuân đình là chỗ hợp vui; Caođình là chỗ chia rẽ. Cổ thi có câu: Cao đình tương biệt xứ nghĩa là: Chỗ ở biệtnhau ở cao đình.Ông Hồ Đắc Hàm cho rằng: Núi Cao đình ở tại tỉnh Chiết Giang, phía đông bắcHàng Châu, chính là một chỗ người ta thường qua lại nghỉ chân và làm nơi tiễnbiệt nhau. Đường phú có câu: Đình cao hề mộc diệp lạc, nghĩa là Chốn Caođình kia lá xanh rụng.Thời xưa, người ta tiễn nhau thường bẻ cành liễu đưa cho người đi. Dương Quanlà một cửa ải ở biên giới tỉnh Thiểm Tây. Đường thi có bài Tống Nguyên Nhị sứAn Tây của Vương Duy là một bài thơ tiễn biệt rất đặc sắc. Vua Đường HuyềnTông lấy vào Nhạc phủ phổ thành một bài hát gọi là Khúc Dương Quan tamđiệp (ba dịp Dương Quan) dùng để hát khi tiễn biệt nhau.Dưới đây là bài Tống Nguyên Nhị sứ An Tây (Đưa Nguyên Nhị đi sứ An Tây)của thi hào Vương Duy:Vị thành chiêu vũ ấy khinh trần,Khách xá thanh thanh liễu sắc tân!Khuyến quân khánh tận nhất bôi tửu,Tây xuất Dương Quan vô cố nhân.Nghĩa:Trời mai mưa ướt Vị Thành,Xanh xanh trước quán, mấy cành liễu non.Khuyên người hãy cạn chén son,Dương Quan tới đó không còn ai quen.(Bản dịch của Ngô Tất Tố)Dương Quan là tên một cửa ải nhưng dùng nghĩa bóng là chỉ nơi tiễn biệt. Trongkinh Thi cũng có câu:Trường đoạn Dương Quan,Chiêm vọng phất cậpTrữ lập dĩ khấp.Nghĩa:Dương Quan đứt ruộtKhuất bóng người đi,Dừng chân ứa lệ.Cơm Phiếu mẫu, trôn Ác ThiểuHàn Tín người đất Hoài Âm nước Sở đời Tây Hán, thuở hàn vi thường câu cá ởsông Hoài. Có khi cả ngày tìm không được một bữa cơm. Phiếu mẫu thương thìnhthường cho cơm ăn. Tín tạ ơn, nói:- Tôi ngày sau được đắc đạo sẽ xin báo đáp.Một hôm, Hàn Tín đem cá ra chợ bán, gặp đứa tiểu nhân tên Ác Thiểu đón đườnglàm nhục, bảo:- Chà, bán cá mà còn đeo gươm cho oai, nhưng có dám đâm ta không?Tín ngẩn ngơ. Tên Ác Thiểu lại tiếp:- Nếu không dám thì hãy chui dưới trôn của ta đây mà qua ...Tín không do dự, cúi mình chui dưới trôn của nó mà đi. Người ở chợ đều cười ồlên, cho Tín quá hèn nhát. Có người tên Hứa Phụ vốn xem tướng giỏi, nói với Tín:- Tướng ngươi sang lắm, hưởng đến tước vương hầu, oai danh thiên hạ.Hàn Tín phì cười:- Một ngày chẳng có một bữa cơm no, còn trông giàu sang sao được.Khi Hạng Lương khởi binh đánh Tần Thủy Hoàng, Hàn Tín đến đầu mong lậpcông, nhưng Lương khinh Tín, chỉ cho làm chức Chấp kích lang để dùng hầu hạnơi trướng mà thôi. Sau Hạng Lương chết, cháu là Hạng Võ lên thay cầm quân,vẫn khinh thường Tín, cho Tín là tên lòn trôn, hèn nhát nên không dùng vào vi ệclớn.Trương Lương là quân sư của Hán Lưu Bang, biết Hàn Tín là người có tài kinhbang tế thế nên tìm đến, yêu cầu Tín bỏ Sở sang giúp Hán. Tín bằng lòng.Hàn Tín được Hán Lưu Bang đăng đàn bái tướng phong chức Nguyên nhung, cầmquân đánh Sở. Đánh được nhiều trận thắng lợi to, cuối cùng hạ được Sở Hạng Võ,gồm thâu thiên hạ, thống nhứt đất nước, giúp Lưu Bang lập nên cơ nghiệp Hántriều, Tín được phong làm Sở vương.Về quê cũ cai trị, Hàn Tín cho người tìm Phiếu mẫu và Ác Thiểu đến. Cả hai phủphục, gầm đầu không dám nhìn lên. Hàn Tín sai người lấy ngàn vàng thưởng choPhiếu mẫu gọi là đền đáp ơn ngày xưa. Phiếu mẫu lạy tạ ra về. Đoạn Tín lại phongcho Ác Thiểu làm chức Trung húy.Ác Thiểu cực kỳ ngạc nhiên, thờ thẫn một lúc mới nói:- Lúc trước tôi ngu lậu thô bỉ, chẳng biết đại nhân mà xúc phạm uy nghiêm, naytội ấy được tha chết là may, còn dám mong đâu được ban chức tước.Hàn Tín ôn hòa bảo:- Ta chẳng phải là kẻ tiểu nhân hay cố chấp, đem lòng cừu hận. Hành động đối xửcủa nhà ngươi ngày xưa xem qua tuy có vẻ quá đáng nhưng cũng là một bài họcluyện chí cho ta. Vậy nhà ngươi đừng tị hiềm, mà hãy nhận lấy chức ta ban.Ác Thiểu cảm mến lạy tạ ra về. Hàn Tín lại nói với kẻ tả hữu:- Tráng sĩ đó trước kia làm nhục ta. Lúc ta còn hàn vi, không thế lực gì, nếu tachống cự, giết nó đi thì chưa chắc ta được như ngày hôm nay. Nhờ ta biết nhẫnnhục nên mới yên thân mà giúp được nước lập nên công danh. Nó giúp ta đấy, nênta mới phong thưởng chớ không phải là việc vô cớ.Cổ thi có câu: Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân.Mang ơn người, đền đáp ơn âu cũng một lẽ thường. Bị người làm nhục mà cũngđền đáp, cho là công ơn mạ nhân như giáo nhân, thật là thái độ của một sĩ quântử. ...