Trong Vợ nhặt, chi tiết nhặt vợ là ngẫu nhiên mà làm thành chủ đề tác phẩm. Bởi vậy, cần chú ý các chi tiết ngẫu nhiên và tất nhiên, bình thường và bất thường, những biến cố
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mấy vấn đề dạy học văn theo hướng Thi pháp học_2 Mấy vấn đề dạy học văn theo hướng Thi pháp họcTrong Vợ nhặt, chi tiết nhặt vợ là ngẫu nhiên mà làm thành chủ đề tácphẩm. Bởi vậy, cần chú ý các chi tiết ngẫu nhiên và tất nhiên, bìnhthường và bất thường, những biến cố, tình huống... Có những cốt truyệnđộc đáo do nhà văn sáng tạo ra nhưng cũng có những cốt truyện mangtính phổ biến, lặp lại một số mô típ nhất định, ta cũng cần chỉ ra ý nghĩaphổ quát của nó. Phân tích cốt truyện ngụ ngôn, có thể chia ra nội dunghiển ngôn và nội dung hàm ngôn. Nhiều nhà Thi pháp học phân chia cốttruyện cổ tích thành nhiều bước, ứng với mỗi chức năng khác nhau.Truyện Cây khế có thể chia ra 11 chức năng, bước cuối cùng có chứcnăng trừng phạt kẻ ác. Kết thúc có hậu là đặc trưng của thể loại truyệncổ tích.Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng của Thi pháp học. Không phải ngẫunhiên mà những người khởi xướng Thi pháp học là những nhà ngôn ngữhọc. R. Jakobson chủ trương đi tìm “chất văn” đích thực của ngôn ngữthơ ca. Còn V. Shkolovski chú trọng thủ pháp “lạ hóa”, nhòe nghĩa củanghệ thuật ngôn từ(4). Ngôn ngữ văn học có tính tổ chức cao, giàu hìnhảnh, đa nghĩa và mang dấu ấn riêng của tác giả. Khi phân tích ngôn ngữthơ, cần lưu ý nhạc điệu, các phương tiện và biện pháp tu từ, cách dùngtừ, giọng thơ, tứ thơ… Mỗi thể loại thơ có những quy định riêng về bútpháp thể hiện. Thơ Đường luật quy định chặt chẽ về tiết tấu, bố cục, câuhay, từ “đắt” thường nằm ở cuối bài. Ngôn ngữ thơ hiện đại mang tínhtự do, không bị gò bó vào khuôn khổ nào, lời nhân vật trữ tình cũng tựnhiên và mang dấu ấn cá nhân rất rõ. Tác giả coi trọng cách diễn đạt mớimẻ nên thường có nhiều cách kết hợp ngữ nghĩa lạ thường (Thơ duyên,Đây mùa thu tới, Vội vàng, Tràng giang, Tống biệt hành, Tây Tiến,Tiếng hát con tàu…). Khi phân tích ngôn ngữ văn xuôi cần chú ý cáchsử dụng các kiểu câu, chủ thể phát ngôn, cách xưng hô, giọng điệu kể,sự cá thể hóa ngôn ngữ của nhân vật và tác giả… Có thể chia ngôn ngữvăn xuôi thành hai tính chất trái ngược nhau. Một là giọng điệu tiểuthuyết, thể hiện đậm đặc trong văn xuôi hiện thực phê phán. Vũ TrọngPhụng có giọng trào phúng, Nam Cao có giọng lạnh lùng, Nguyễn CôngHoan có giọng hóm hỉnh… Ngược lại là giọng điệu sử thi thể hiện đậmđặc trong văn xuôi cách mạng. Ta có thể thấy giọng văn tin yêu, trữ tìnhtrong Vợ chồng A Phủ, Chiếc lược ngà, giọng văn sôi nổi bừng bừng khíthế trong Rừng xà nu, Những đứa con trong gia đình.. Hoặc giọng văncổ kính trang trọng trong các tiểu thuyết chương hồi trung đại. Mỗi thểloại, giai đoạn văn học, tác giả lớn có một văn phong riêng, góp phầnlàm đa dạng ngôn ngữ văn học.Điểm nhìn còn được gọi là điểm quan sát, vị trí người kể chuyện, nhãnquan, cách nhìn đời… Điểm nhìn nghệ thuật có quan hệ với mọi yếu tốtrong tác phẩm nên ta có các loại điểm nhìn sau: 1. Điểm nhìn tác giả:được thể hiện ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba vô nhân xưng và ở cáchtác giả xưng hô nữa; 2. Điểm nhìn nhân vật: là cách mà nhân vật nhìnnhận, đánh giá sự việc, có khi, nhân vật được trao điểm nhìn trần thuật;3. Điểm nhìn tâm lý: tức là nói đến điểm nhìn bên trong hay bên ngoài,chủ quan hay khách quan; 4. Điểm nhìn tư tưởng: là thái độ, lập trường,cách nhìn đời của tác giả hay nhân vật; 5. Điểm nhìn không gian: gồmcó vị trí nhìn, khoảng cách nhìn, trường nhìn, cách nhìn…; 6. Điểm nhìnthời gian: nhìn liền mạch hay đứt quãng, nhìn kỹ hay nhìn lướt, cách sắpxếp các thời quá khứ - hiện tại – tương lai…; 7. Điểm nhìn tu từ: là cáchnhìn độc đáo mang tính phát hiện của tác giả về sự vật hiện tượng. Vídụ: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, “Con gió xinh thì thàotrong lá biếc”… (Vội vàng). Ranh giới các loại điểm nhìn trên chỉ mangtính tương đối và trong một tác phẩm có thể có nhiều điểm nhìn khácnhau. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 2, có câu hỏi: “Đoạn trích Nhữngđứa con trong gia đình được trần thuật chủ yếu từ điểm nhìn của nhânvật nào ?”. Trong tác phẩm này có hai điểm nhìn của tác giả và nhân vật,nhiều khi đan xen, khó tách biệt rạch ròi. Điểm nhìn có thể làm thành kếtcấu và chủ đề của tác phẩm như truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao.Thi pháp học cũng nghiên cứu cả hình tượng tác giả. Người xưa nói:“Văn như kỳ nhân”, xem văn là biết được người, đọc tác phẩm là biếtngay tác giả. Nhà văn có thể xuất hiện trong tác phẩm qua cách xưng“tôi” hoặc có thể ẩn mình. Để biết phong cách của nhà văn, có thể căncứ vào ngôn ngữ trần thuật, cách xưng hô, giọng điệu, cảm hứng đề tài,không gian – thời gian sự kiện, cách bố cục và cách sử dụng các chi tiếttrong tác phẩm… Nhà văn trong tác phẩm có thể không đồng nhất vớinhà văn ở ngoài đời. Để khách quan, ta cần bám vào văn bản là chính.Ta có thể nghiên cứu phong cách của từng nhà văn lớn, có đặc điểmriêng rõ nét như: Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, NguyễnCông Hoan, Chế Lan Viên, Xuân Diệu… Hoặc có thể phân tích phongcách chung của một nhóm nhà văn có cùng đặc điểm như: tác giả truyệncổ tích, nhà th ...