![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
MIỄN DỊCH GHÉP (Kỳ 7)
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 171.06 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Huyết thanh kháng lympho bàoHuyết thanh kháng lympho bào được sản xuất bằng cách dùng tế bào tuyến ức, tế bào lách, tế bào hạch lympho hoặc lympho bào ống ngực để mẫn cảm cho ngựa hoặc thỏ. Khi tiêm huyết thanh kháng lympho bào tại thời điểm ghép sẽ làm giảm lượng lympho bào tuần hoàn và dẫn tới giảm đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào. Miễn dịch dịch thể cũng bị tác động ở một chừng mực nào đó. Sự giảm số lượng lympho bào ở máu ngoại vi hình như không phải...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
MIỄN DỊCH GHÉP (Kỳ 7) MIỄN DỊCH GHÉP (Kỳ 7) 4.5. Huyết thanh kháng lympho bào Huyết thanh kháng lympho bào được sản xuất bằng cách dùng tế bào tuyếnức, tế bào lách, tế bào hạch lympho hoặc lympho bào ống ngực để mẫn cảm chongựa hoặc thỏ. Khi tiêm huyết thanh kháng lympho bào tại thời điểm ghép sẽ làmgiảm lượng lympho bào tuần hoàn và dẫn tới giảm đáp ứng miễn dịch qua trunggian tế bào. Miễn dịch dịch thể cũng bị tác động ở một chừng mực nào đó. Sựgiảm số lượng lympho bào ở máu ngoại vi hình như không phải là do kháng thể vàbổ thể mà là do kháng thể bao phủ lên tế bào lympho, hoạt động như một khángthể opsonin, thúc đẩy hiện tượng thực bào (hình ? chương hệ thống bổ thể). Trên các mô hình động vật thực nghiệm huyết thanh này có tác dụng kéodài thời gian sống dư của mô ghép thận, gan và tim. Ở người huyết thanh thườngđược sử dụng cùng với các thuốc ức chế miễn dịch khác và vì vậy khó xác địnhđược hiệu quả riêng biệt của chúng. Hơn thế nữa khó có thể dự đoán được hiệuquả của một mẻ huyết thanh vì nồng độ kháng thể đặc hiệu với một phân tử mànglympho bào bị thay đổi hoặc do sự biến đổi của các isotype kháng thể chủ yếu.Một số huyết thanh kháng lympho bào có hiệu quả cao trong việc làm giảm tế bàolympho, nhưng số khác lại có tác dụng yếu. Việc sử dụng các huyết thanh này cóthể gây ra các biến chứng như bệnh huyết thanh hoặc sốc phản vệ. 5. Ðiều trị bằng kháng thể đơn clone Hạn chế chủ yếu của từng loại phương pháp ức chế miễn dịch là tác dụngkhông đặc hiệu của chúng và bởi vậy ít hay nhiều nó cũng gây ra trạng thái ức chếmiễn dịch lan tỏa và làm cho cơ thể nhận rơi vào nguy cơ dễ mắc các bệnh nhiễmtrùng. Thật là lý tưởng khi có một chất ức chế miễn dịch đặc hiệu về phương diệnkháng nguyên tức là nó chỉ ức chế miễn dịch đối với kháng nguyên có trong môghép mà không ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch đối với các kháng nguyên khác.Các kháng thể đơn clone có tiềm năng của một chất ức chế miễn dịch đặc hiệu nhưvậy mặc dù qui trình kỹ thuật vẫn còn trong thai nghén. Cho đến này người ta đãcó các kháng thể đơn clone và đã được dùng để ức chế hoạt động của tế bào Thoặc một tiểu quần thể của tế bào T. Chưa sản xuất được kháng thể đơn clone màức chế riêng đối với các tế bào T được hoạt hóa bởi kháng nguyên ghép. Cáckháng thể đơn clone kháng CD3 đã được dùng để phong bế hoạt động của tế bàoT. Khi tiêm kháng thể này thì số lượng tế bào T trong máu ngoại vi giảm nhanhchóng do đại thực bào nuốt các tế bào T đã được bao phủ kháng thể kháng CD3.Kháng thể này đã được dùng trong giai đoạn thải bỏ cấp và ngăn cản được phảnứng thải bỏ. Người ta cũng đã sản xuất được kháng thể đơn clone kháng thụ thểdành cho IL-2 và dùng chúng để kéo dài thời gian sống dư của mô ghép. Thụ thểdành cho IL-2 chỉ xuất hiện trên các tế bào T hoạt hóa, vì vậy tiêm kháng thể nàysau khi ghép đã phong bế sự tăng sinh của tế bào T đã được hoạt hóa khi đáp ứngchống lại các kháng nguyên ghép. Kết quả này thể hiện rõ trên các mô hình ghéptim và ghép thận ở chuột cống. Cả phân tử CD3 lẫn thụ thể dành cho IL-2 đều cótrên tất cả các tế bào T hoạt hóa vì vậy chúng làm ảnh hưởng đến toàn thể tế bàoT. Ðể hạn chế tác dụng không mong muốn này người ta đã sản xuất kháng thểđơn clone kháng CD4 và nhận thấy chúng cũng có tác dụng kéo dài thời gian sốngdư của mô ghép trên mô hình ghép thận ở khỉ. Ðiều đặc biệt là kháng thể nàykhông làm giảm số lượng tế bào TCD4+ mà chỉ làm cho các tế bào này rơi vàotrạng thái bị ức chế miễn dịch. Việc điều trị bằng kháng thể đơn clone thườngnhằm mục đích làm giảm hoặc bất hoạt tế bào T trong cơ thể nhận ghép, nhưngngười ta cũng dùng chúng để xử lý mô ghép đặc biệt là tủy xương trước khi ghép.Làm như vậy để làm kiệt các tế bào lympho T có thẩm quyền miễn dịch ở trongmô ghép và ngăn cản chúng gây ra bệnh mô ghép chống túc chủ. Tác dụng này cóthể đạt tối đa bằng cách chọn lựa kháng thể đơn clone có quyết định isotype đóngvai trò là một chất hoạt hóa tốt đối với hệ thống bổ thể. Một bất lợi chủ yếu của việc dùng kháng thể đơn clone để kéo dài thời giansống dư của mảnh ghép là chúng có nguồn gốc từ tế bào chuột nhắt vì vậy cơ thểnhận thường sinh ra một đáp ứng kháng thể kháng lại protein chuột nhắt và làmthanh lọc nhanh kháng thể này khỏi cơ thể. Hiện nay người ta đang cố gắng tạocác kháng thể đơn clone có nguồn gốc từ tế bào người để thay thế cho kháng thểđơn clone có nguồn gốc từ tế bào chuột nhắt. Do các cytokine có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc thải bỏ mô ghépnên có thể sử dụng các kháng thể đơn clone kháng các cytokine để điều trị trongghép. Kháng thể đơn clone kháng TNF-( có tác dụng kéo dài hiệu quả ghép tủyxương trên mô hình chuột nhắt và làm giảm biểu hiện của bệnh mô ghép chống túcchủ. Các kháng thể đơn clone kháng TNF-( hoặc IL-2 có tác dụng kéo dài thờigian sống dư của ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
MIỄN DỊCH GHÉP (Kỳ 7) MIỄN DỊCH GHÉP (Kỳ 7) 4.5. Huyết thanh kháng lympho bào Huyết thanh kháng lympho bào được sản xuất bằng cách dùng tế bào tuyếnức, tế bào lách, tế bào hạch lympho hoặc lympho bào ống ngực để mẫn cảm chongựa hoặc thỏ. Khi tiêm huyết thanh kháng lympho bào tại thời điểm ghép sẽ làmgiảm lượng lympho bào tuần hoàn và dẫn tới giảm đáp ứng miễn dịch qua trunggian tế bào. Miễn dịch dịch thể cũng bị tác động ở một chừng mực nào đó. Sựgiảm số lượng lympho bào ở máu ngoại vi hình như không phải là do kháng thể vàbổ thể mà là do kháng thể bao phủ lên tế bào lympho, hoạt động như một khángthể opsonin, thúc đẩy hiện tượng thực bào (hình ? chương hệ thống bổ thể). Trên các mô hình động vật thực nghiệm huyết thanh này có tác dụng kéodài thời gian sống dư của mô ghép thận, gan và tim. Ở người huyết thanh thườngđược sử dụng cùng với các thuốc ức chế miễn dịch khác và vì vậy khó xác địnhđược hiệu quả riêng biệt của chúng. Hơn thế nữa khó có thể dự đoán được hiệuquả của một mẻ huyết thanh vì nồng độ kháng thể đặc hiệu với một phân tử mànglympho bào bị thay đổi hoặc do sự biến đổi của các isotype kháng thể chủ yếu.Một số huyết thanh kháng lympho bào có hiệu quả cao trong việc làm giảm tế bàolympho, nhưng số khác lại có tác dụng yếu. Việc sử dụng các huyết thanh này cóthể gây ra các biến chứng như bệnh huyết thanh hoặc sốc phản vệ. 5. Ðiều trị bằng kháng thể đơn clone Hạn chế chủ yếu của từng loại phương pháp ức chế miễn dịch là tác dụngkhông đặc hiệu của chúng và bởi vậy ít hay nhiều nó cũng gây ra trạng thái ức chếmiễn dịch lan tỏa và làm cho cơ thể nhận rơi vào nguy cơ dễ mắc các bệnh nhiễmtrùng. Thật là lý tưởng khi có một chất ức chế miễn dịch đặc hiệu về phương diệnkháng nguyên tức là nó chỉ ức chế miễn dịch đối với kháng nguyên có trong môghép mà không ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch đối với các kháng nguyên khác.Các kháng thể đơn clone có tiềm năng của một chất ức chế miễn dịch đặc hiệu nhưvậy mặc dù qui trình kỹ thuật vẫn còn trong thai nghén. Cho đến này người ta đãcó các kháng thể đơn clone và đã được dùng để ức chế hoạt động của tế bào Thoặc một tiểu quần thể của tế bào T. Chưa sản xuất được kháng thể đơn clone màức chế riêng đối với các tế bào T được hoạt hóa bởi kháng nguyên ghép. Cáckháng thể đơn clone kháng CD3 đã được dùng để phong bế hoạt động của tế bàoT. Khi tiêm kháng thể này thì số lượng tế bào T trong máu ngoại vi giảm nhanhchóng do đại thực bào nuốt các tế bào T đã được bao phủ kháng thể kháng CD3.Kháng thể này đã được dùng trong giai đoạn thải bỏ cấp và ngăn cản được phảnứng thải bỏ. Người ta cũng đã sản xuất được kháng thể đơn clone kháng thụ thểdành cho IL-2 và dùng chúng để kéo dài thời gian sống dư của mô ghép. Thụ thểdành cho IL-2 chỉ xuất hiện trên các tế bào T hoạt hóa, vì vậy tiêm kháng thể nàysau khi ghép đã phong bế sự tăng sinh của tế bào T đã được hoạt hóa khi đáp ứngchống lại các kháng nguyên ghép. Kết quả này thể hiện rõ trên các mô hình ghéptim và ghép thận ở chuột cống. Cả phân tử CD3 lẫn thụ thể dành cho IL-2 đều cótrên tất cả các tế bào T hoạt hóa vì vậy chúng làm ảnh hưởng đến toàn thể tế bàoT. Ðể hạn chế tác dụng không mong muốn này người ta đã sản xuất kháng thểđơn clone kháng CD4 và nhận thấy chúng cũng có tác dụng kéo dài thời gian sốngdư của mô ghép trên mô hình ghép thận ở khỉ. Ðiều đặc biệt là kháng thể nàykhông làm giảm số lượng tế bào TCD4+ mà chỉ làm cho các tế bào này rơi vàotrạng thái bị ức chế miễn dịch. Việc điều trị bằng kháng thể đơn clone thườngnhằm mục đích làm giảm hoặc bất hoạt tế bào T trong cơ thể nhận ghép, nhưngngười ta cũng dùng chúng để xử lý mô ghép đặc biệt là tủy xương trước khi ghép.Làm như vậy để làm kiệt các tế bào lympho T có thẩm quyền miễn dịch ở trongmô ghép và ngăn cản chúng gây ra bệnh mô ghép chống túc chủ. Tác dụng này cóthể đạt tối đa bằng cách chọn lựa kháng thể đơn clone có quyết định isotype đóngvai trò là một chất hoạt hóa tốt đối với hệ thống bổ thể. Một bất lợi chủ yếu của việc dùng kháng thể đơn clone để kéo dài thời giansống dư của mảnh ghép là chúng có nguồn gốc từ tế bào chuột nhắt vì vậy cơ thểnhận thường sinh ra một đáp ứng kháng thể kháng lại protein chuột nhắt và làmthanh lọc nhanh kháng thể này khỏi cơ thể. Hiện nay người ta đang cố gắng tạocác kháng thể đơn clone có nguồn gốc từ tế bào người để thay thế cho kháng thểđơn clone có nguồn gốc từ tế bào chuột nhắt. Do các cytokine có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc thải bỏ mô ghépnên có thể sử dụng các kháng thể đơn clone kháng các cytokine để điều trị trongghép. Kháng thể đơn clone kháng TNF-( có tác dụng kéo dài hiệu quả ghép tủyxương trên mô hình chuột nhắt và làm giảm biểu hiện của bệnh mô ghép chống túcchủ. Các kháng thể đơn clone kháng TNF-( hoặc IL-2 có tác dụng kéo dài thờigian sống dư của ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
miễn dịch ghép bài giảng miễn dịch học y học cơ sở kiến thức bệnh học giáo trình miễn dịchTài liệu liên quan:
-
Báo cáo: Khảo sát đặc điểm tăng huyết áp ở người có tuổi tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
9 trang 197 0 0 -
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 79 0 0 -
Giáo trình Y học cơ sở (Tài liệu dành cho Dược trung cấp) - Trường Trung cấp Y tế Tây Ninh
285 trang 62 1 0 -
Giáo trình Miễn dịch bệnh lý học (giáo trình đào tạo sau đại học): Phần 2
33 trang 43 0 0 -
Nước ép quả: Nguồn dinh dưỡng cần thiết cho nhân viên văn phòng
3 trang 43 0 0 -
Ngôn ngữ ở bé (18-24 tháng tuổi)
3 trang 41 0 0 -
21 trang 37 0 0
-
Những trái cây hữu ích và có hại với bà bầu
10 trang 35 0 0 -
Nghỉ hè – làm sao cân bằng học và chơi
3 trang 35 0 0 -
Một số hình ảnh siêu âm của bệnh lý túi mật (Kỳ 1)
5 trang 35 0 0