Thông tin tài liệu:
Một cuộc điều tra đã được thực hiện cuối năm 2005 bởi nhóm tư vấn của UNDP về phản ứng của khách hàng khi ngành ngân hàng mở cửa cho thấy nếu được lựa chọn giữa ngân hàng nước ngoài và ngân hàng Việt Nam, gần một nửa số khách hàng sẽ lựa chọn dịch vụ của các ngân hàng nước ngoài.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mở cửa dịch vụ ngân hàng: Nhận diện bất cập!
Mở cửa dịch vụ ngân hàng: Nhận diện bất cập!
Một cuộc điều tra đã được thực hiện cuối năm 2005 bởi nhóm tư vấn
của UNDP về phản ứng của khách hàng khi ngành ngân hàng mở cửa
cho thấy nếu được lựa chọn giữa ngân hàng nước ngoài và ngân
hàng Việt Nam, gần một nửa số khách hàng sẽ lựa chọn dịch vụ của
các ngân hàng nước ngoài.
Khó cho ngân hàng trong nước
Dẫn kết quả cụ thể trong hoạt động cho vay, ông Xavier Barré, chuyên gia dự án hỗ trợ thương
mại đa biên Mutrap II cho biết: 45% số khách hàng được điều tra, kể cả khách hàng cá nhân và
doanh nghiệp, trả lời sẽ chuyển sang vay vốn ngân hàng nước ngoài chứ không vay vốn của
ngân hàng Việt Nam.
Tương tự như vậy, trong trường hợp lựa chọn ngân hàng để gửi tiền, hơn một nửa số khách
hàng có ý định gửi tiền vào ngân hàng nước ngoài, đặc biệt là tiền gửi bằng ngoại tệ.
Kết quả phân tích cũng cho thấy mức độ tác động thậm chí còn lớn hơn khi xem xét thị phần tài
sản có và tiền gửi ngân hàng của các khách hàng quyết định chuyển từ ngân hàng Việt Nam
sang các ngân hàng nước ngoài. Theo tính toán của các chuyên gia, điều này cho phép đánh giá
mức giảm sút tài sản có và tiền gửi của các ngân hàng Việt Nam.
Theo đó, nếu các khách hàng doanh nghiệp chiếm 65% dư nợ cho vay của các ngân hàng Việt
Nam, trong đó một nửa số khách hàng quyết định sẽ chuyển sang ngân hàng nước ngoài thì
điều này sẽ gây ra những tác động lớn, tiêu cực đối với tài sản có của các ngân hàng Việt Nam.
Phân tích các nguyên nhân khiến khách hàng có lựa chọn “hướng ngoại” đó, Báo cáo điều tra
chỉ ra rằng lý do quan trọng nhất chỉ vì thủ tục ở các khách hàng là doanh nghiệp, trong khi đó
đối với khách hàng cá nhân là tính chuyên nghiệp. Lý do quan trọng tiếp theo là lãi suất và chất
lượng dịch vụ.
Đồng tình với giải thích của nhóm nghiên cứu, ông Barré nhận định: “Bất kỳ ngân hàng nào có
thể phục vụ và thoả mãn khách hàng của mình một cách chuyên nghiệp với những thủ tục đơn
giản sẽ giành được thị phần”.
Tuy nhiên, nghiên cứu cũng cho biết khách hàng sẽ không rời bỏ các ngân hàng Việt Nam ngay
lập tức để chuyển sang các ngân hàng nước ngoài vì họ còn tính đến sự gắn kết mang tính văn
hoá và sở thích của họ tin tưởng vào các ngân hàng trong nước. Nhưng điều đáng nói ở chỗ
những phát hiện này là lời cảnh báo cho các ngân hàng Việt Nam cần nỗ lực hoàn thiện các quy
trình thủ tục và dịch vụ nếu muốn tiếp tục phục vụ khách hàng.
Nhận diện bất cập
Tuy nhiên, nếu tất cả các chính sách hạn chế cạnh tranh bị xoá bỏ theo cam kết hội nhập, các
ngân hàng được tự do cung cấp dịch vụ và được bình đẳng về “luật chơi” giữa các nhóm dịch vụ
khác nhau thì có thể thấy các nguyên tắc hiện hành vẫn còn những điểm bất cập.
Nhìn nhận những quy định trong một số dịch vụ tài chính nhất định cần được hoàn thiện và làm
rõ, ông Nguyễn Thanh Hà, Giám đốc Công ty tư vấn Vietbid tỏ ra lo lắng. Theo ông Hà, liên
quan đến dịch vụ cho thuê tài chính, Chính phủ đã có nhiều văn bản cho phép hoạt động này
được mở rộng phát triển.
Như trong Nghị định 65/2005/NĐ-CP, hoạt động cho thuê vận hành đã được mở rộng cho các
công ty cho thuê tài chính nhưng vẫn còn rất nhiều hoạt động dịch vụ cụ thể khác (cho thuê hợp
vốn, mua lại tài sản của khách hàng sau đó cho thuê lại...) chưa làm được do thiếu văn bản quy
định chi tiết.
Trên thực tế, vẫn còn tình trạng Nhà nước đưa ra quy định cho làm gì mới được làm. Không như
nguyên tắc phổ biến ở các nước là “điều gì không cấm thì được phép”.“Chính vì thế, nhiều
nghiệp vụ mới trong quá trình hoạt động nảy sinh nhưng các đơn vị khó có thể làm”, ông Hà lý
giải.
Trong dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, mặc dù khả năng thanh toán đã được mở rộng so với
trước đây nhưng vẫn có nhiều hạn chế khác. Các quy định về séc du lịch, hối phiếu ngân hàng
hoặc tiêu chuẩn an toàn trong thanh toán điện tử chưa được rõ, dẫn đến tâm lý ngại ngần của
các ngân hàng khi mở rộng dịch vụ này.
Các sản phẩm trên thị trường tiền tệ hiện cũng có những bất cập nhất định. Như chứng chỉ tiền
gửi chưa có quy định để được giao dịch trên thị trường thứ cấp dẫn đến giao dịch có nhiều hạn
chế. Đối với các sản phẩm ngoại hối và nghiệp vụ phái sinh, mặc dù một số ngân hàng đã thử
nghiệm nhưng trên thực tế việc cung cấp rộng rãi dịch vụ này còn nhiều hạn chế do chưa có
quy định cụ thể đối với công cụ phái sinh về tỉ giá và lãi suất.
Các công cụ chuyển nhượng cũng có tình hình tương tự. Mặc dù gần đây, Chính phủ đã nỗ lực
rất lớn trong việc ban hành pháp lệnh về công cụ chuyển nhượng trong đó đưa ra một số hình
thức hối phiếu và séc nhưng một trong những công cụ rất quan trọng là công cụ nợ dài hạn để
huy động vốn lại chưa có khuôn khổ pháp lý để thực hiện.
Các dịch vụ về quản lý tài sản và quản lý quỹ đầu tư chung được dự báo cũng sẽ mở rộng cùng
với sự phát triển của nền kinh tế. Đây là lĩnh vực mới đòi hỏi ngân hàng Nhà nư ...