Giám sát ngân hàng (GSNH) nói chung thường là trách nhiệm của NHTW, nhưng ở một số nước lại do Bộ Tài chính hoặc một tổ chức độc lập tiến hành. Một hình thức lưỡng tính, bằng cách trao cho cơ quan thực hiện GSNH một vị thế đặc biệt - bán độc lập, trong khi vẫn duy trì chức năng này trong NHTW, cũng đã được một số nơi trên thế giới lựa chọn.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mô Hình Giám Sát Ngân Hàng Nào Là Phù Hợp với Bối Cảnh Đặc Thù của Việt Nam trong Kỷ Nguyên Mới?
Mô Hình Giám Sát Ngân Hàng Nào Là Phù Hợp với Bối Cảnh Đặc Thù
của Việt Nam trong Kỷ Nguyên Mới?
Giám sát ngân hàng (GSNH) nói chung thường là trách nhiệm của NHTW, nhưng ở một số
nước lại do Bộ Tài chính hoặc một tổ chức độc lập tiến hành. Một hình thức lưỡng tính, bằng
cách trao cho cơ quan thực hiện GSNH một vị thế đặc biệt - bán độc lập, trong khi vẫn duy trì
chức năng này trong NHTW, cũng đã được một số nơi trên thế giới lựa chọn.
1. Tổ chức nào có trách nhiệm giám sát hoạt động ngân hàng?
Một công trình nghiên cứu về bộ máy tổ chức GSNH được tiến hành bởi IMF (Tuya và
Zamalloa, 1994) đã chỉ ra rằng: ở hầu hết các nước châu Á, Trung Đông, các nước thuộc Liên
bang Xô Viết cũ, và châu Phi, thẩm quyền GSNH được trao cho NHTW; duy chỉ ở khu vực
Tây bán cầu, thẩm quyền này được chia xấp xỉ ngang nhau giữa NHTW và cơ quan bên
ngoài - hoặc là Bộ Tài chính, hoặc là một cơ quan tách biệt. Hầu hết các NHTW trong các
nước thành viên ASEAN (trừ Brunei) đều chịu trách nhiệm GSNH. ở một số nước châu Âu
như ý, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Hylạp, Cộng hoà Séc, Tây Ban Nha, trách nhiệm điều hành
hàng ngày hoạt động GSNH trực tiếp thuộc về NHTW. ở một số nước châu Âu khác như Áo,
Na Uy, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm về GSNH. Tình hình dường như phức tạp hơn ở các
nước như Bỉ, Pháp, Đức và Anh, nơi mà cơ quan chịu trách nhiệm GSNH là độc lập về vị thế,
đôi chỗ còn có cả bộ máy nhân sự riêng. Tuy nhiên, dù có vị trí pháp lý độc lập, các cơ quan
này thường được liên kết chặt chẽ với: hoặc là NHTW, hoặc là Bộ Tài chính.
Cách phân loại trên mang nặng tính thống kê theo đầu nước nên vẫn chưa thực sự trả lời
được câu hỏi mô hình GSNH nào đựơc ưa chuộng, và tại sao.
Trong một công trình nghiên cứu mới đây của Revenda (2001), để chính xác đến mức có thể,
ông phân mẫu các nước được phân tích thành 2 nhóm: (i) nhóm những nước mà NHTW đóng
vai nhà độc quyền về GSNH; và (ii) nhóm các nước còn lại, nơi NHTW không có trách nhiệm
hoặc không phải là cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm về GSNH. Kết quả nghiên cứu đã chỉ
ra rằng: các nhân tố mang tính lịch sử, truyền thống, thể chế chính trị, đặc thù hệ thống tài
chính - ngân hàng trong nước là những lý do chủ yếu dẫn tới mô hình nào được lựa chọn; và
có một khuynh hướng mới xuất hiện là, ở hầu hết các nước có hệ thống tài chính phát triển,
GSNH không phải hoặc không còn là trách nhiệm độc quyền của NHTW (các nước như Mỹ,
Pháp, Anh, Nhật, Đức, Canada, úc, Phần Lan, Thụy Sỹ, v.v.., đều đã hoặc mới chuyển sang
áp dụng mô hình theo nhóm (ii).
Thực tế, chưa trường phái nào thắng thế trường phái nào trong việc bảo vệ cho: hoặc mô
hình theo nhóm (i), hoặc mô hình theo nhóm (ii). Chính vì vậy mà mới đây, trong khi một số
nước như Slovakia, Đài Loan, Hàn Quốc, Latvia, Estonia hay gần đây nhất là Indonesia,
Trung Quốc chuyển chức năng GSNH ra ngoài NHTW, thì một số nước khác như Ireland,
Netherlands, Chính phủ quyết định đưa Cơ quan GSNH vào trong NHTW và tăng cường củng
cố vị thế, cũng như mở rộng phạm vi giám sát của chúng trong các bộ máy NHTW này.
2. Tại sao?
Trên giác độ vĩ mô, Heller (1991), Goodhart và Shoenmaker (1995), Carmine Di Noia và
Giorgio Di Giorgio (1999) đều cho là: những NHTW mà không phải chịu trách nhiệm GSNH,
dường như thành công hơn trong việc theo đuổi mục tiêu kiềm chế lạm phát so với những
NHTW có một phần hoặc đầy đủ trách nhiệm GSNH. Lý do là những ngân hàng đó tập trung
được toàn bộ nguồn lực của mình vào việc điều hành chính sách tiền tệ - một nhiệm vụ ngày
nay được cho là quan trọng nhất của bất kỳ một NHTW nào. Hơn nữa, chúng tránh được
những xung đột vốn có giữa việc điều hành chính sách tiền tệ và việc thực thi chức năng
giám sát.
Quan hệ nhân quả này vẫn tiếp tục được bàn cãi. Người ta ngờ rằng, còn nhiều nhân tố ảnh
hưởng khác đã không được xét đến khi nghiên cứu về mối quan hệ trên. Thực ra, sự tham gia
của một NHTW vào hoạt động GSNH không nhất thiết làm yếu đi vai trò của nó về điều hành
chính sách tiền tệ; diễn biến lạm phát và hoạt động GSNH ít nhiều vẫn là hai vấn đề riêng rẽ.
Nhân tố cốt lõi chính là cấu trúc hệ thống tài chính - ngân hàng đặc thù của mỗi nước, và
quan điểm phổ biến về sứ mệnh của NHTW tại nước đó.
Trên giác độ vi mô, có bốn cách sắp đặt bộ máy GSNH: (1) đặt trong NHTW như là một Vụ;
(2) là một Vụ trong Bộ Tài chính; (3) thành lập một cơ quan độc lập (superintendency) như
nhiều nước châu Mỹ Latin lựa chọn; và (4) pha trộn giữa các cách lựa chọn trên, chẳng hạn
như nâng tầm Đơn vị GSNH lên thành bán độc lập và vẫn đặt trong NHTW.
Trong bốn cách lựa chọn trên, mô hình Bộ Tài chính rõ ràng là ít được ưa chuộng nhất, vì cho
tới nay các tiêu chuẩn khắt khe về thu - chi ngân sách có thể dẫn tới sự điều hành thái quá về
một số hoạt động GSNH. Chẳng hạn, Bộ Tài chính sẽ cố gắng hết sức để cản trở bất kỳ một
sự tăng nào về khoản dự trữ bù đắp rủi ro mất vốn, việc xoá các khoản nợ xấu, hoặc trì hoãn
việc công bố nhữ ...