Danh mục

Mô hình lý thuyết nghiên cứu tác động của kiểm soát nội bộ đến hiệu quả hoạt động và rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Số trang: 19      Loại file: pdf      Dung lượng: 289.92 KB      Lượt xem: 21      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghiên cứu "Mô hình lý thuyết nghiên cứu tác động của kiểm soát nội bộ đến hiệu quả hoạt động và rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam" nhằm xây dựng mô hình lý thuyết xem xét tác động của Kiểm soát nội bộ đến các mục tiêu kiểm soát, đó là mục tiêu hiệu quả hoạt động và quản lý rủi ro của các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận lý thuyết đại diện và lý thuyết đối phó ngẫu nhiên, phương pháp nghiên cứu lịch sử tổng quan công trình nghiên cứu thực nghiệm của các tác giả về Kiểm soát nội bộ.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mô hình lý thuyết nghiên cứu tác động của kiểm soát nội bộ đến hiệu quả hoạt động và rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam Mô hình lý thuyết nghiên cứu tác động của kiểm soát nội bộ đến hiệu quả hoạt động và rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam Nguyễn Tuấn Thạc sĩ, Giảng viên, Trường Đại học Nha Trang Tóm tắt Nghiên cứu nhằm xây dựng mô hình lý thuyết xem xét tác động của Kiểm soát nội bộ (KSNB) đến các mục tiêu kiểm soát, đó là mục tiêu hiệu quả hoạt động và quản lý rủi ro của các Ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận lý thuyết đại diện và lý thuyết đối phó ngẫu nhiên, phương pháp nghiên cứu lịch sử tổng quan công trình nghiên cứu thực nghiệm của các tác giả về KSNB. Kết quả nghiên cứu, tác giả đã tổng hợp được một số khái niệm về KSNB; sử dụng khuôn khổ KSNB của COSO, Basel và khung pháp lý Việt Nam về KSNB Ngân hàng thương mại để xây dựng mô hình lý thuyết tác động của KSNB đến hiệu quả hoạt động và rủi ro của các NHTM Việt Nam. Kết quả nghiên cứu giúp tìm ra được mối quan hệ lý thuyết giữa KSNB và hiệu quả hoạt động, cũng như mối quan hệ giũa KSNB và rủi ro của các NHTM. Đồng thời, tác giả đã xác định được một số câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu dựa trên mô hình trên. Từ khóa: Kiểm soát nội bộ, Hiệu quả hoạt động, Quản lý rủi ro, Ngân hàng thương mại. 1. Giới thiệu Các đơn vị đều mong muốn hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được hiệu quả cao, quản lý các rủi ro có thể xảy ra, hoạt động tuân thủ pháp luật và các quy định, BCTC được lập một cách tin cậy. Tuy nhiên, trong hoạt động của đơn vị tiềm ẩn nguy cơ không đạt được mục tiêu do những yếu kém từ: nhà quản lý, đội ngũ nhân viên hoặc bên thứ ba trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, gây ra những rủi ro hay giảm hiệu quả hoạt động của đơn vị. Việc xây dựng KSNB là một trong 176 những biện pháp đánh giá và quản lý rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm giúp đơn vị đạt được các mục tiêu. Trong những năm qua, hệ thống NHTM Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể cả về quy mô tài sản, hệ thống mạng lưới giao dịch, sản phẩm dịch vụ, cũng như hệ thống công nghệ Ngân hàng. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được về quy mô và lợi nhuận thì hệ thống NHTM cũng đang bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém và có nguy cơ xảy ra rủi ro. Quy mô NHTM có xu hướng mở rộng, nhưng hiệu quả hoạt động thiếu ổn định, bên cạnh đó nhiều rủi ro đã xảy ra và đang cần giải quyết như nợ xấu, khả năng phá sản Ngân hàng. Một trong những giải pháp mang tính chiến lược và cấp thiết là việc thiết lập và nâng cấp KSNB của NHTM (Podpiera, R., 2006). KSNB trở thành cơ chế tự phòng chống rủi ro quan trọng và mang lại hiệu quả trong hoạt động của NHTM. Thực tế, hoạt động KSNB tại các NHTM Việt Nam mới được đề cập về mặt lý luận và áp dụng vào thực tiễn trong vài năm gần đây, tuy nhiên quá trình áp dụng còn nhiều lúng túng, thiếu kinh nghiệm cả về lý thuyết và thực tiễn. Do vậy, thực tế tại hầu hết các NHTM Việt Nam, KSNB chưa được đặt đúng vị trí, KSNB được hiểu và thực hiện khác nhau ở mỗi Ngân hàng. Bên cạnh đó, Ngân hàng nhà nước đã ban hành thông tư số 44/2011/TT-NHNN ngày 29/12/2011 quy định về KSNB của tổ chức tín dụng, ngân hàng nước ngoài. Đây là tín hiệu khởi sắc của trào lưu “luật hóa” KSNB tại Việt Nam; nói khác hơn, Ngân hàng Nhà nước đã nâng KSNB lên đúng tầm và vai trò của yêu cầu quản trị Ngân hàng. Từ thực tiễn nêu trên, vấn đề nghiên cứu về KSNB các NHTM tại Việt Nam thật sự cần thiết nhằm giúp nhà quản trị Ngân hàng hướng đến một KSNB hữu hiệu và hiệu quả. Nghiên cứu về KSNB sẽ giúp nâng cao sự phù hợp của KSNB trong Ngân hàng, nhằm tăng hiệu quả quản trị, đồng thời tuân thủ yêu cầu về KSNB của ngân hàng Nhà nước; giúp các NHTM tại Việt Nam đạt được các mục tiêu trong hoạt động, mang lại hiệu quả cao và quản lý tốt các rủi ro của Ngân hàng. 2. Cơ sở lý thuyết xây dựng mô hình nghiên cứu KSNB 2.1 Cơ sở tiếp cận lý thuyết đại diện Theo các báo cáo của Coase, R.H. (1937) và Berle, A.A. & Means G.C. (1967), lý thuyết đại diện đã trở thành một khuôn khổ quan trọng để giúp nhà nghiên cứu tìm hiểu bản chất của sự bất đồng giữa chủ sở hữu và quản lý doanh nghiệp, cũng như tìm ra hướng giải quyết hợp lý về sự bất đồng. Lý thuyết đại diện được hiểu là vấn đề đại diện xảy ra khi các bên hợp tác có mục tiêu và phân công lao động khác nhau (Jensen, M.C. & Meckling, W., 1976). Cụ thể, lý 177 thuyết đại diện hướng vào các mối quan hệ đại diện; trong đó, một bên là người chủ và người quản lý doanh nghiệp (người đại diện). Jensen, M.C. & Meckling, W. (1976), Fama E.F. & Jensen, M.C. (1983a, 1983b), Jensen, M.C. & Ruback, R.S. (1983) định nghĩa một mối quan hệ đại diện là “một hợp đồng theo đó một hay nhiều người chủ thuê người khác (đại diện) để thực hiện một số hoạt động thay mặt người chủ thông qua một số ủy quyền quyết định cho đại diện”. Theo Eisenhardt, K. (1989) lý thuyết đại diện tập trung vào giải quyết hai vấn đề xảy ra trong mối quan hệ đại diện: vấn đề đại diện và các vấn đề chia sẽ rủi ro. Một vấn đề đại diện xảy ra khi lợi ích của người chủ và đại diện bị xung đột, vấn đề này sẽ dẫn đến khó khăn hoặc tốn kém cho người chủ để giám sát hành động của các đại diện. Mặt khác, một vấn đề của việc chia sẻ rủi ro xảy ra khi người chủ và đại diện có những thái độ khác nhau đối với rủi ro. Dựa trên lý thuyết đại diện giới thiệu bởi Jensen, M.C. & Meckling, W. (1976), cho thấy rằng việc tách biệt giữa quyền sở hữu và kiểm soát sẽ dẫn đến xung đột lợi ích; mà thường xảy ra ở hầu hết các hoạt động của từng cá nhân trong hệ thống phân quyền giữa người chủ và đại diện. Do đó, quản trị doanh nghiệp là cần thiết để giúp các doanh nghiệp đồng bộ hóa lợi ích và chia sẽ rủi ro của tất cả các thành viên (Hart, O., 1995). Quản trị doanh nghiệp là một hệ thống luật lệ, quy tắc, chính sách; nhằm địn ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: