Danh mục

Mô hình nhà nước phát triển: Một nghiên cứu tổng quan

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 941.72 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mục tiêu chính của nghiên cứu các vấn đề tổng quan về mô hình nhà nước phát triển, do vậy tác giả đã tiến hành rà soát, xem xét các tài liệu khoa học đáng tin cậy có liên quan đến nội dung nghiên cứu, kết quả thu về được 24 tài liệu đáng tin cậy và mang tính khoa học, từ đó phân tích các vấn đề chung về khái niệm nhà nước phát triển , mô hình nhà nước phát triển ở các quốc gia và ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả thảo luận một số vấn đề đối với việc xây dựng nhà nước phát triển trong bối cảnh thế kỷ 21.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mô hình nhà nước phát triển: Một nghiên cứu tổng quan MÔ HÌNH NHÀ NƯỚC PHÁT TRIỂN: MỘT NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN Võ Thị Cẩm Tú 1 1. Khoa Khoa học Quản lý, Trường Đại học Thủ Dầu Một, Liên hệ email: tuvtc@tdmu.edu.vn.TÓM TẮT Mục tiêu chính của nghiên cứu các vấn đề tổng quan về mô hình nhà nước phát triển, do vậytác giả đã tiến hành rà soát, xem xét các tài liệu khoa học đáng tin cậy có liên quan đến nội dungnghiên cứu, kết quả thu về được 24 tài liệu đáng tin cậy và mang tính khoa học, từ đó phân tích cácvấn đề chung về khái niệm nhà nước phát triển , mô hình nhà nước phát triển ở các quốc gia và ởViệt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả thảo luận một số vấn đề đối với việc xây dựng nhà nước phát triểntrong bối cảnh thế kỷ 21. Từ khóa: “Chính phủ phát triển, “Mô hình Chính phủ phát triển”; “Mô hình nhà nước pháttriển”, “Nhà nước phát triển”.1. ĐẶT VẤN ĐỀ Khái niệm nhà nước phát triển (Developmental State) đầu tiên được đưa ra từ nghiên cứu mộtnước tư bản chủ nghĩa là Nhật Bản, mặc dù Nhà nước Nhật Bản được gọi là nhà nước phát triển - NNPT,nhưng về bản chất vẫn là nhà nước tư sản - nhà nước dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuấtchủ yếu. Tuy nhiên, đến nay khái niệm NNPT không còn là khái niệm độc quyền của chủ nghĩa tư bảnnữa mà đã sử dụng rộng rãi trong những quốc gia đi theo con đường xã hội chủ nghĩa (Đinh Văn Thụy,2017). Johnson lần đầu tiên đề xuất khái niệm NNPT, sử dụng thuật ngữ này để mô tả các chínhsách can thiệp mạnh mẽ do Nhật Bản thực hiện nhằm dẫn đến công nghiệp hóa nhanh chóng, bềnvững và phát triển kinh tế lâu dài. Thuật ngữ này đã trở thành cách viết tắt cho sự trỗi dậy thànhcông của các quốc gia công nghiệp hóa mới (NIC) ở Đông Á, hay còn gọi là “Những con hổ châuÁ” – Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore. Trong giai đoạn bắt đầu từ Thế chiến thứ hai vàtiếp tục cho đến những năm 1980, các chiến lược phát triển của họ được định hình bởi một hệ tưtưởng chính trị ưu tiên nâng cao mức thu nhập và duy trì tăng trưởng công nghiệp (hay chủ nghĩaGNP). Mô hình này khẳng định nhà nước là chìa khóa cho quá trình phát triển, có khả năng và ýđịnh giải quyết các thất bại thị trường, khan hiếm vốn và thiếu sự phối hợp giữa chính phủ và giớitinh hoa công nghiệp (Jewellord Nem Singh và Jesse Salah Ovadia, 2018). Trung Quốc, Singapore, Ấn Độ, Thái Lan, Đài Loan, Việt Nam, Malaysia, Hàn Quốc,Philippines và Indonesia đều được xếp vào nhóm các quốc gia đang phát triển. Khi so sánh tốc độtăng trưởng của họ với nhiều nền kinh tế phương Tây, kết quả thật đáng kinh ngạc. Hoa Kỳ phảimất khoảng 50 năm để tăng gấp đôi quy mô nền kinh tế của mình trong thời kỳ nền kinh tế cất cánhvào cuối thế kỷ 19 và người ta ước tính rằng Vương quốc Anh phải mất khoảng 60 năm để làm đượcđiều tương tự. Một số nước Đông và Đông Nam Á ngày nay đã tăng gấp đôi nền kinh tế của mìnhsau mỗi 10 năm. Nhà nước Phát triển là một phần không thể thiếu trong các hành động của chínhphủ nhằm giảm nghèo. Trung Quốc đã giúp 600 triệu người thoát nghèo trong 30 năm qua hầu nhưchỉ nhờ hình thức lập kế hoạch kinh tế ở cấp nhà nước này. Sự tiến bộ trong các mục tiêu Phát triểnThiên niên kỷ của Liên hợp quốc phần lớn là nhờ hình thức quản trị này (United Nations, 2014) Đầu những năm 2000, có thể thấy rõ sự tiến bộ đáng chú ý ở Argentina, Brazil, Ethiopia, Rwandavà Trung Quốc – tất cả đều là những ví dụ mới hơn về tư duy theo chủ nghĩa phát triển với những thànhcông khác nhau. Chiến lược tăng trưởng của Argentina, Brazil, Ethiopia, Rwanda và Trung Quốc liênquan đến việc tập trung quản lý tiền thuê, tăng cường mối quan hệ chính trị giữa chính phủ và các nhàtư bản trong nước, đồng thời điều chỉnh chính sách công nghiệp và tài chính do nhà nước hậu thuẫn đểtạo ra những lợi thế cạnh tranh mới (Jewellord Nem Singh và Jesse Salah Ovadia, 2018) . 357 Có thể thấy, NNPT không phải là một kiểu nhà nước mà là một mô hình nhà nước, bởi môhình nhà nước đó đã đưa ra cách thức tổ chức và thực thi quyền lực tương đối mới, đặc biệt là trongviệc can dự vào thị trường (Đinh Văn Thụy, 2017).Cách thức nhà nước rút một phần khỏi nền kinhtế sau cuộc cách mạng công nghiệp, nhưng nhà nước phát triển vẫn tiếp tục có vai trò quan trọngvai trò định hướng chính sách công nghiệp và thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô tích cực (LuizCarlos Bresser-Pereira, 2019). Tuy nhiên, nếu coi mô hình NNPT là đồng nhất và là kế hoạch chi tiết cho sự phát triển sẽ làmột sai lầm. Thật vậy, Evans lập luận mạnh mẽ về sự cần thiết phải xây dựng các nhà nước thựcdụng, linh hoạt có thể ứng phó với những thách thức mới và thay đổi bối cảnh quốc tế, đồng thờitránh việc cắt xén thể chế và một kích thước phù hợp với mọi cách tiếp cận chính sách phát triển(Jewellord Nem Singh và Jesse Salah Ovadia, 2018). Như vậy trong bối cảnh hiện nay, cần nhìnnhận lại khái niệm cũng như cách tiếp cận về mô hình nhà nước phát triển, đồng thời tiếp tục suynghĩ và phân tích các loại và hình thức NNPT đang diễn ra tồn tại trên thế giới, cách thức nhà nướcđó vận hành thành công là cần thiết. Từ những lý giải trên, dựa trên các nghiên cứu và tài liệu sẵn có, chúng tôi sử dụng các phươngpháp tiếp cận tài liệu có hệ thống để khám phá các tài liệu có sẵn bằng cách xác định các lý thuyếtnổi bật; phân bố địa lý của các bài báo đã xuất bản; và nghiên cứu cần thiết mô hình của một sốquốc gia, khái quát các mô hình này và đưa ra các hướng nghiên cứu trong tương lai về NNPT.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Dựa trên mục đích của nghiên cứu, tác giả tiến hành rà soát và xem xét tài liệu khoa học (gồmcác bài báo khoa học, sách, luận văn và báo cáo hội thảo) bằng tiếng Anh và tiếng Việt, sau đó tácgiả tiến hành điều chỉnh mô hình PRISMA (Page et al. 2021) với các kết quả được tìm thấy có liênquan đến nội dung nghiên cứu. Bộ sưu tậ ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: