Danh mục

Một số suy nghĩ về sự phát triển của lực lượng tàu thuyền khai thác trên vùng đặc quyền kinh tế biển Việt Nam

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 377.49 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Sự phát triển gần như tự phát của lực lượng tàu thuyền khai thác hải sản trên vùng biển Việt nam gây ra nhiều hệ lụy khôn lường. Trong hơn 3 thập kỷ qua số lượng đơn vị đánh bắt hải sản tăng hơn 4 lần, tổng công suất tàu khai thác tăng 15 lần tạo ra một sức ép khổng lồ đối với nguồn lợi vốn dĩ đã cạn kiệt trong vùng biển đặc quyền kinh tế của nước ta. Hơn nữa cơ cấu đội tàu khai thác lại bất hợp lý, những tàu có công suất nhỏ đánh bắt ven bờ chiếm tỷ trọng quá lớn làm cho tình hình càng trầm trọng hơn. Đứng trước tình hình đó, vấn đề đặt ra vô cùng cấp thiết là phải tổ chức lại ngành khai thác hải sản Việt nam như thế nào cho hợp lý để bảo đảm sự phát triển bền vững với hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một số suy nghĩ về sự phát triển của lực lượng tàu thuyền khai thác trên vùng đặc quyền kinh tế biển Việt Nam Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2015 VAÁN ÑEÀ TRAO ÑOÅI MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG TÀU THUYỀN KHAI THÁC TRÊN VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM SOME THOUGHTS OF THE DEVELOPMENT OF FISHING VESSEL FORCE IN THE EXCLUSIVE ECONOMIC ZONE OF VIETNAM Trần Đình Chất1 Ngày nhận bài: 08/5/2014; Ngày phản biện thông qua: 13/10/2014; Ngày duyệt đăng: 10/2/2015 TÓM TẮT Sự phát triển gần như tự phát của lực lượng tàu thuyền khai thác hải sản trên vùng biển Việt nam gây ra nhiều hệ lụy khôn lường. Trong hơn 3 thập kỷ qua số lượng đơn vị đánh bắt hải sản tăng hơn 4 lần, tổng công suất tàu khai thác tăng 15 lần tạo ra một sức ép khổng lồ đối với nguồn lợi vốn dĩ đã cạn kiệt trong vùng biển đặc quyền kinh tế của nước ta. Hơn nữa cơ cấu đội tàu khai thác lại bất hợp lý, những tàu có công suất nhỏ đánh bắt ven bờ chiếm tỷ trọng quá lớn làm cho tình hình càng trầm trọng hơn. Đứng trước tình hình đó, vấn đề đặt ra vô cùng cấp thiết là phải tổ chức lại ngành khai thác hải sản Việt nam như thế nào cho hợp lý để bảo đảm sự phát triển bền vững với hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Từ khóa: Số lượng, cơ cấu, tự phát, sức ép, cạn kiệt, bất hợp lý, tỷ trọng, trầm trọng hơn, cấp thiết, tổ chức lại, phát triển bền vững. ABSTRACT The spontaneous increase of the number of fishing vessels in Exclusive Economic Zone of Vietnam has created serious consequences. Over last three decades, the number of fishing boats has increased more than 4 times, or equivalence to 15 times of harvesting capacity. The situation has created a huge pressure on fishery resources that are believed to be exhausted. In addition, the structure of fishing vessels is unreasonable, with a high density of small boats exploiting inshore have made the state worsen. In that situation, there is an urgent necessitate to reorganize the fishing industry so that it becomes sustainable and has the most efficient social-economic results. Keywords: Spontaneous, number of fishing vessels, serious consequences, pressure, serious consequences, unreasonable, high density, inshore, state worsen, urgent necessitate I. MỞ ĐẦU Trong vài thập kỷ gần đây, khai thác hải sản của nước ta ghi nhận sự tăng trưởng liên tục. Sản lượng khai thác năm 2011 đạt 2.226.600 tấn, tăng hơn gấp 3 lần so với năm 1990; trong đó giá trị kim ngạch xuất khẩu từ khai thác hải sản đạt gần 2 tỷ USD, chiếm hơn 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản (6,1 tỷ USD), cung cấp một nguồn thực phẩm vô cùng quan trọng cho tiêu dùng nội địa, tạo công ăn việc làm cho khoản 700.000 lao động trực tiếp trên biển. Có thể nói, ngành khai thác hải sản đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng của 1 TS. Trần Đình Chất: Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang 220 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG đất nước. Trong những năm trước mắt cũng như về lâu dài, vị trí đặc biệt của nó là không thể thay thế được. Thực trạng số lượng cũng như tổng công suất tàu thuyền hiện có là quá lớn so với quy định, dẫn tới sự mất cân bằng nghiêm trọng giữa năng lực khai thác và trữ lượng nguồn lợi cho phép đánh bắt. Xét về cơ cấu tàu thuyền cũng hết sức bất hợp lý, điều đó tạo ra sức ép toàn diện cho nguồn lợi trên toàn bộ vùng biển đặc quyền kinh tế và đặc biệt là vùng biển ven bờ. Trong khi đó, sự phát triển gần như tự phát của lực lượng tàu thuyền vẫn tiếp tục diễn ra. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Trong bối cảnh đó, việc đánh giá năng lực khai thác của các đơn vị tàu thuyền trong mối tương quan với trữ lượng của nguồn lợi là hết sức cần thiết. Đây là một trong những cơ sở quan trọng nhất để tiến hành tổ chức lại sản xuất ngành khai thác hải sản nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của ngành này, trên cơ sở hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. II. NỘI DUNG 1. Tình hình biến động của lực lượng tàu thyền khai thác hải sản trên vùng biển nước ta Số lượng tàu thuyền khai thác trên vùng biển Việt nam đã tăng gần 4 lần trong vòng 3 thập kỷ (1981 2013), từ 29.584 lên tới 117.998 chiếc (bảng 1). Trong thời kỳ này, chỉ có nửa đầu thập niên 80 của thế kỷ trước số lượng tàu thuyền có giảm chút ít; thời gian còn lại ghi nhận sự tăng trưởng. Đặc biệt số lượng tàu thuyền tăng lên nhanh chóng. diễn ra trong các năm 1991 - 1994. Chẳng hạn, Số 1/2015 trong năm 1992 thống kê được 54.612 chiếc, điều đó có nghĩa là so với năm trước đã tăng lên 10.672 chiếc hay 24,3%. Trong năm 1993, số lượng tàu thuyền lại tăng tiếp 7.143 chiếc, hay tăng 13,2% so với năm 1992. Tốc độ tăng trưởng còn cao hơn nữa vào năm 2008, bởi lẽ so với năm trước số đơn vị khai thác trên vùng biển Việt nam tăng thêm 37.109 (42,9%). Đó là sự tăng trưởng cao nhất ghi nhận được trong kỳ phân tích. Nguyên nhân của sự biến động bất thường này là do chính vào năm này Nhà nước thực hiện trợ giá xăng dầu cho bà con ngư dân và để được hưởng sự ưu đãi này ngư dân đã kê khai tàu thuyền khai thác của mình, vốn dĩ trước đó nằm ngoài số liệu thống kê của cơ quan chức năng. Qua đây, chúng ta có thể thấy rằng nhờ có chính sách trợ giá xăng dầu của Nhà nước, số lượng tàu thuyền thực tế mới được làm rõ. Mặt khác, phần nào ta cũng có thể kết luận số liệu thống kê được công bố có độ chính xác không cao. Bảng 1. Số lượng và công suất bình quân của lực lượng tàu thuyền thời kỳ 1981–2008 Năm 1981 1982 1983 1984 1985 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Số lượng tàu 29.584 29.429 29.117 29.549 29.323 31.680 35.406 35.774 37.035 41.266 43.940 54612 61.805 67.254 69.000 69.953 71.500 71.779 73.397 75.928 78.978 81.800 83.122 83.300 84.080 85.530 86.500 123.609 131.000 128.449 126.458 125.000 117.998 Tốc độ tăng [%] -0,5 -1,1 1,5 -1,8 8,0 11,7 1,0 3,5 11,4 6,5 24,3 13,2 8,8 2,6 1,4 2,2 0,4 2,3 3,4 4,0 3,6 1,6 0,2 0,9 1,7 1,1 42,9 6,0 -2,0 -1,6 -11,6 -5,9 − Công suất b/q [CV] 16,2 16,0 16 ...

Tài liệu được xem nhiều: