Một số thuốc mới trong điều trị bệnh đa u tủy xương
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 103.81 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đa u tủy xương là một bệnh ác tính của hệ thống tạo máu, đặc trưng bởi sự tăng sinh mạnh mẽ của các tương bào ác tính ở trong tủy xương gây tăng sản xuất các globulin miễn dịch đơn dòng (protein M), suy thận, thiếu máu, tổn thương tiêu xương và tăng nồng độ canxi trong máu. Bệnh chiếm khoảng 10% tổng số các ca bệnh máu ác tính, với khoảng 15.200 trường hợp mắc mới mỗi năm, đứng hàng thứ 2 trong số các bệnh máu ác tính. Đa u tuỷ xương là bệnh không thể...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một số thuốc mới trong điều trị bệnh đa u tủy xương Một số thuốc mới trong điều trị bệnh đa u tủy xương Đa u tủy xương là một bệnh ác tính của hệ thống tạo máu, đặctrưng bởi sự tăng sinh mạnh mẽ của các tương bào ác tính ở trong tủyxương gây tăng sản xuất các globulin miễn dịch đơn dòng (protein M),suy thận, thiếu máu, tổn thương tiêu xương và tăng nồng độ canxi trongmáu. Bệnh chiếm khoảng 10% tổng số các ca bệnh máu ác tính, với khoảng15.200 trường hợp mắc mới mỗi năm, đứng hàng thứ 2 trong số các bệnhmáu ác tính. Đa u tuỷ xương là bệnh không thể điều trị khỏi với thời giansống trung bình khoảng 4-6 năm sau khi phát bệnh. Các thuốc kinh điểntrong điều trị bệnh trước đây như cyclophosphamide, doxorubicine,dexamethason đều có độc tính và tỷ lệ thất bại trong điều trị khá cao, nhất làở những người luống tuổi, đối tượng chủ yếu mắc bệnh. Trong thời gian gầnđây, nhiều loại thuốc mới đã được thử nghiệm trong điều trị đa u tuỷ xươngvà thu được những kết quả rất khả quan, giúp cải thiện hiệu quả điều trị vàtiên lượng của người bệnh. Thalidomide: thalidomide được dùng làm thuốc ngủ từ những năm 50của thế kỷ trước, nhưng sau đó đã bị rút khỏi thị trường do nguy cơ gây quáithai. Các thử nghiệm dùng thalidomide trong điều trị ung thư đã được thựchiện từ những năm 1960 nhưng đã không thu được kết quả mong muốn. Tuynhiên, trong thời gian gần đây, các nhà khoa học nhận thấy có sự tăng sinhmạch máu ở các bệnh nhân đa u tủy xương cũng như khả năng chống sinhmạch máu của thalidomide. Từ đó, thuốc này đã được thử nghiệm qua nhiềunghiên cứu khác nhau để đánh giá hiệu quả trong điều trị đa u tủy xương.Kết quả của những nghiên cứu này cho thấy, khi được dùng ở những trườnghợp bệnh tái phát hoặc không đáp ứng với thuốc các điều trị khác,thalidomide dùng đơn lẻ có thể giúp lui bệnh trong 25 - 35% các trường hợp.Nếu dùng phối hợp thalidomide với glucocoticoid, tỷ lệ đáp ứng là 50% vàkhi phối hợp 3 loại thuốc thalidomide, dexamethasone và cyclophosphamidehoặc melphalan. Với những kết quả này, thalidomide hiện được coi là điềutrị chuẩn trong các trường hợp đa u tủy xương tái phát hoặc kháng thuốc.Tác dụng phụ chủ yếu của thuốc là gây an thần, mệt mỏi, táo bón và nổi banđỏ, các biểu hiện này thường giảm dần khi giảm liều dùng của thuốc. Một sốtrường hợp dùng thalidomide kéo dài có thể gây tổn thương thần kinh ngoạivi. Biểu hiện huyết khối được ghi nhận ở 1-3% các trường hợp dùngthalidomide đơn thuần, nhưng khi dùng phối hợp với dexamethason, tỷ lệnày tăng lên 10 - 15% và khi phối hợp với một thuốc gây độc tế bào nhưdoxorubicin, tỷ lệ này lên tới 25%. Các tác dụng phụ khác ít gặp hơn nhưphù, chậm nhịp tim, giảm bạch cầu, bất lực và suy giáp. Thalidomide bịchống chỉ định tuyệt đối ở phụ nữ đang mang thai do có nguy cơ gây quáithai. Liều dùng thông thường của thalidomide trong điều trị đa u tuỷ xươnglà 200mg/ ngày, có thể tăng lên đến 400mg/ ngày sau 2-4 tuần. Nói chung,nên dùng liều thấp nhất có thể mà vẫn kiểm soát được bệnh, liều trên200mg/ngày không nên được dùng phối hợp với glucocorticoid hoặc cácthuốc ức chế miễn dịch. Bortezomib: là chất ức chế proteasome đầu tiên được sử dụng trongđiều trị đa u tủy xương. Từ 5/2003, thuốc này đã được Cơ quan Quản lýdược và thực phẩm Mỹ (FDA) chấp thuận cho sử dụng trong điều trị cáctrường hợp đa u tuỷ xương tiến triển. Các nghiên cứu trên động vật thínghiệm cho thấy, bortezomib có khả năng chống lại nhiều loại ung thư,trong đó có đa u tủy xương. Các nghiên cứu sau đó trên những bệnh nhân đau tuỷ xương kháng trị liệu cho thấy, bortezomib giúp lui bệnh một phần hoặchoàn toàn trong 30-50% các trường hợp. 20% các trường hợp không đáp ứngbortezomib đơn thuần có thể đáp ứng với điều trị phối hợp bortezomib vớidexamethason. Tác dụng ổn định bệnh của bortezomib thường đến nhanh vàkéo dài hơn so với dexamethason. Hiện nay, các nghiên cứu đánh giá hiệuquả phối hợp giữa bortezomib với các thuốc khác như thalidomide,doxorubicin đang được tiến hành. Các tác dụng phụ thường gặp nhất củabortezomib là rối loạn tiêu hoá, giảm các tế bào máu, mệt mỏi và tổn thươngthần kinh ngoại vi. Khoảng 30% bệnh nhân có giảm số lượng tiểu cầu xuốngdưới 50000/mm3. Bệnh lý thần kinh ngoại vi với biểu hiện chủ yếu là đaucũng xuất hiện ở khoảng 30% các trường hợp dùng thuốc. Liều dùng khởiđầu của bortezomib là 1,3mg mỗi lần ở các ngày thứ 1, 4, 8 và 11 của mộtvòng điều trị 21 ngày. Các dẫn chất của thalidomide: do thalidomide có hiệu quả rõ rệt trongđiều trị đa u tuỷ xương, nhưng cũng gây ra khá nhiều tác dụng phụ ngoài cơquan tạo máu, nhất là nguy cơ gây quái thai, nên trong thời gian gần đây,một số dẫn xuất của thuốc này như CC-5013 (lenalidomide), CC-4047 đãđược bào chế và đưa vào thử nghiệm, nhằm khắc phục những nhược điểm vềđộc tính của thalidomide mà vẫn giữ được tính hiệu quả trong điều tr ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một số thuốc mới trong điều trị bệnh đa u tủy xương Một số thuốc mới trong điều trị bệnh đa u tủy xương Đa u tủy xương là một bệnh ác tính của hệ thống tạo máu, đặctrưng bởi sự tăng sinh mạnh mẽ của các tương bào ác tính ở trong tủyxương gây tăng sản xuất các globulin miễn dịch đơn dòng (protein M),suy thận, thiếu máu, tổn thương tiêu xương và tăng nồng độ canxi trongmáu. Bệnh chiếm khoảng 10% tổng số các ca bệnh máu ác tính, với khoảng15.200 trường hợp mắc mới mỗi năm, đứng hàng thứ 2 trong số các bệnhmáu ác tính. Đa u tuỷ xương là bệnh không thể điều trị khỏi với thời giansống trung bình khoảng 4-6 năm sau khi phát bệnh. Các thuốc kinh điểntrong điều trị bệnh trước đây như cyclophosphamide, doxorubicine,dexamethason đều có độc tính và tỷ lệ thất bại trong điều trị khá cao, nhất làở những người luống tuổi, đối tượng chủ yếu mắc bệnh. Trong thời gian gầnđây, nhiều loại thuốc mới đã được thử nghiệm trong điều trị đa u tuỷ xươngvà thu được những kết quả rất khả quan, giúp cải thiện hiệu quả điều trị vàtiên lượng của người bệnh. Thalidomide: thalidomide được dùng làm thuốc ngủ từ những năm 50của thế kỷ trước, nhưng sau đó đã bị rút khỏi thị trường do nguy cơ gây quáithai. Các thử nghiệm dùng thalidomide trong điều trị ung thư đã được thựchiện từ những năm 1960 nhưng đã không thu được kết quả mong muốn. Tuynhiên, trong thời gian gần đây, các nhà khoa học nhận thấy có sự tăng sinhmạch máu ở các bệnh nhân đa u tủy xương cũng như khả năng chống sinhmạch máu của thalidomide. Từ đó, thuốc này đã được thử nghiệm qua nhiềunghiên cứu khác nhau để đánh giá hiệu quả trong điều trị đa u tủy xương.Kết quả của những nghiên cứu này cho thấy, khi được dùng ở những trườnghợp bệnh tái phát hoặc không đáp ứng với thuốc các điều trị khác,thalidomide dùng đơn lẻ có thể giúp lui bệnh trong 25 - 35% các trường hợp.Nếu dùng phối hợp thalidomide với glucocoticoid, tỷ lệ đáp ứng là 50% vàkhi phối hợp 3 loại thuốc thalidomide, dexamethasone và cyclophosphamidehoặc melphalan. Với những kết quả này, thalidomide hiện được coi là điềutrị chuẩn trong các trường hợp đa u tủy xương tái phát hoặc kháng thuốc.Tác dụng phụ chủ yếu của thuốc là gây an thần, mệt mỏi, táo bón và nổi banđỏ, các biểu hiện này thường giảm dần khi giảm liều dùng của thuốc. Một sốtrường hợp dùng thalidomide kéo dài có thể gây tổn thương thần kinh ngoạivi. Biểu hiện huyết khối được ghi nhận ở 1-3% các trường hợp dùngthalidomide đơn thuần, nhưng khi dùng phối hợp với dexamethason, tỷ lệnày tăng lên 10 - 15% và khi phối hợp với một thuốc gây độc tế bào nhưdoxorubicin, tỷ lệ này lên tới 25%. Các tác dụng phụ khác ít gặp hơn nhưphù, chậm nhịp tim, giảm bạch cầu, bất lực và suy giáp. Thalidomide bịchống chỉ định tuyệt đối ở phụ nữ đang mang thai do có nguy cơ gây quáithai. Liều dùng thông thường của thalidomide trong điều trị đa u tuỷ xươnglà 200mg/ ngày, có thể tăng lên đến 400mg/ ngày sau 2-4 tuần. Nói chung,nên dùng liều thấp nhất có thể mà vẫn kiểm soát được bệnh, liều trên200mg/ngày không nên được dùng phối hợp với glucocorticoid hoặc cácthuốc ức chế miễn dịch. Bortezomib: là chất ức chế proteasome đầu tiên được sử dụng trongđiều trị đa u tủy xương. Từ 5/2003, thuốc này đã được Cơ quan Quản lýdược và thực phẩm Mỹ (FDA) chấp thuận cho sử dụng trong điều trị cáctrường hợp đa u tuỷ xương tiến triển. Các nghiên cứu trên động vật thínghiệm cho thấy, bortezomib có khả năng chống lại nhiều loại ung thư,trong đó có đa u tủy xương. Các nghiên cứu sau đó trên những bệnh nhân đau tuỷ xương kháng trị liệu cho thấy, bortezomib giúp lui bệnh một phần hoặchoàn toàn trong 30-50% các trường hợp. 20% các trường hợp không đáp ứngbortezomib đơn thuần có thể đáp ứng với điều trị phối hợp bortezomib vớidexamethason. Tác dụng ổn định bệnh của bortezomib thường đến nhanh vàkéo dài hơn so với dexamethason. Hiện nay, các nghiên cứu đánh giá hiệuquả phối hợp giữa bortezomib với các thuốc khác như thalidomide,doxorubicin đang được tiến hành. Các tác dụng phụ thường gặp nhất củabortezomib là rối loạn tiêu hoá, giảm các tế bào máu, mệt mỏi và tổn thươngthần kinh ngoại vi. Khoảng 30% bệnh nhân có giảm số lượng tiểu cầu xuốngdưới 50000/mm3. Bệnh lý thần kinh ngoại vi với biểu hiện chủ yếu là đaucũng xuất hiện ở khoảng 30% các trường hợp dùng thuốc. Liều dùng khởiđầu của bortezomib là 1,3mg mỗi lần ở các ngày thứ 1, 4, 8 và 11 của mộtvòng điều trị 21 ngày. Các dẫn chất của thalidomide: do thalidomide có hiệu quả rõ rệt trongđiều trị đa u tuỷ xương, nhưng cũng gây ra khá nhiều tác dụng phụ ngoài cơquan tạo máu, nhất là nguy cơ gây quái thai, nên trong thời gian gần đây,một số dẫn xuất của thuốc này như CC-5013 (lenalidomide), CC-4047 đãđược bào chế và đưa vào thử nghiệm, nhằm khắc phục những nhược điểm vềđộc tính của thalidomide mà vẫn giữ được tính hiệu quả trong điều tr ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
kiến thức y học cách dùng thuốc y học về thuốc dược phẩm sử dụng dược phẩmTài liệu liên quan:
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 167 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 125 0 0 -
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 109 0 0 -
4 trang 108 0 0
-
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 76 0 0 -
XÂY DỰNG VHI (VOICE HANDICAP INDEX) PHIÊN BẢN TIẾNG VIỆT
25 trang 53 0 0 -
Những bí quyết chữa bệnh từ đậu phụ
5 trang 48 0 0 -
Kiến thức y học - Sức khỏe quý hơn vàng: Phần 1
177 trang 47 0 0 -
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, KỸ NĂNG SỬ DỤNG ORESOL
22 trang 45 0 0 -
Nước ép quả: Nguồn dinh dưỡng cần thiết cho nhân viên văn phòng
3 trang 42 0 0