Danh mục

Một số vấn đề đặt ra về tự chủ đại học ở Việt Nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 346.63 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết đưa ra những quan điểm, giải pháp và những đánh giá về vấn đề tự chủ đại học hiện nay ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết để nắm chi tiết hơn nội dung nghiên cứu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một số vấn đề đặt ra về tự chủ đại học ở Việt Nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ TỰ CHỦ ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Ngô Văn Hùng Trường Đại học Nội vụ Hà Nội Tóm tắt tham luận: Hiện nay cả nước có khoảng hơn 235 trường đại học, họcviện (bao gồm hệ thống các trường công lập, tư thục, dân lập, viện nghiên cứu, caođẳng, trung cấp). Tuy nhiên, hệ thống giáo dục nước ta nói chung và giáo dục đại họcnói riêng còn có nhiều bất cập, tồn tại từ chất lượng giáo dục thấp, điều kiện vật chấtcòn nghèo, cơ chế quản lý còn nhiều hạn chế, đội ngũ giảng viên từ chất lượng đếnphân bố không đồng đều, chỗ thừa, chỗ thiếu dẫn đến tình trạng bất cân đối so với tốcđộ phát triển của quy mô đào tạo. Mặt khác, quy mô các trường đại học của Việt Namlại nhỏ, phân tán theo kiểu manh mún là một trong những nguyên nhân chính làm chosự quản lý của nhà nước đối với các trường đại học còn gặp nhiều khó khăn như:thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát hoặc kiểm tra, giám sát một cách lỏng lẻo dẫn đễn hiệuquả không cao. Vậy trong chiến lược phát triển của các trường đại học ở Việt Nam sẽtiến hành tự chủ ra sao? Nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp hiện đại hoá giáo dụcViệt Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước? Đểlàm rõ câu hỏi này, trước hết chúng ta cần định vị rõ thực chất của vấn đề tự chủ giáodục đại học ở Việt Nam là gì? Nó bao hàm những nội dung sau: tự chủ về con người (nguồn nhân lực); tự chủ về tài chính; tự chủ về tuyển sinh và quản lý sinh viên; tự chủvề nghiên cứu khoa học. Từ khoá: tự chủ đại học, vấn đề đặt ra. 1. Đặt vấn đề Tự chủ là quyền của các trường đại học được tự quyết định các vấn đề liên quanđến phát triển đại học mà không bị ràng buộc bởi các quy định bên ngoài, điều nàykhác hoàn toàn với tự lo. Nhưng tự chủ cũng không có nghĩa là tự do. Tự chủ đại học(ĐH) ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 1990, được luật hóa và thí điểm đổi mới cơchế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục ĐH công lập giai đoạn 2014-2017, nhưngđến nay nhìn chung việc thực hiện tự chủ ĐH công lập chưa thực sự tạo ra chuyển biếnđáng kể, do nhiều nguyên nhân, trước hết là do có nhiều quan điểm, nhận thức khácnhau về những nội dung cơ bản của tự chủ ĐH. Thậm chí có những nội dung hết sứcquan trọng, chẳng hạn như vấn đề trách nhiệm giải trình của nhà trường trước các cơquan quản lý nhà nước, người học và xã hội về các hoạt động đã hoặc sẽ được thựchiện, hầu như chưa được đề cập đến. Trong bài tham luận này, tác giả cố gắng đưa ranhững quan điểm, giải pháp và những đánh giá về vấn đề tự chủ đại học hiện nay ởViệt Nam 2. Nội dung 2.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về tự chủ đại học Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sáchđối với tự chủ đại học. Quyền tự chủ của trường đại học được ghi nhận từ năm 2005trong Luật Giáo dục với các nội dung tự chủ tương tự như ở các nước phát triển. Tiếpđó, nhiều văn bản chính sách khác tiếp tục tái khẳng định các nội dung tự chủ đại học. 341Có thể kể đến như: Luật Giáo dục đại học (GDĐH) 2012; Nghị quyết số 77/NQ-CPngày 24/10/2014 cuả Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơsở GDĐH công lập giai đoạn 2014 - 2017. Chính phủ đã ban hành: Nghị định số130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sửdụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước; Nghị định số43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thựchiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập(SNCL); Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơchế tự chủ của đơn vị SNCL; đồng thời, nhiều chính sách, văn bản hướng dẫn kháccũng được các bộ, ngành ban hành. Kể từ khi Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiệnnhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị SNCL được thực thi,đã có nhiều chuyển biến tích cực: Việc mở rộng trao quyền tự chủ cho đơn vị sựnghiệp đã góp phần nâng cao số lượng và chất lượng dịch vụ công; tạo điều kiện chongười dân có thêm cơ hội lựa chọn, tiếp cận các dịch vụ công với chất lượng ngàycàng cao. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, Nghị định số 43/2006/NĐ-CP cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập cần được sửa đổi: Các đơn vị sự nghiệpchưa được giao quyền tự chủ một cách đầy đủ; chưa thực sự khuyến khích các đơn vịcó điều kiện vươn lên tự chủ ở mức cao hơn… Bên cạnh đó, trong quá trình hoạt động,nhiều đơn vị phát sinh các hoạt động liên doanh, liên kết, mở rộng cung ứng dịch vụcông chưa được điều chỉnh trong các ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: